NGUYỄN KHẮC PHÊ
Tản văn
Hà Nội bây giờ, chẳng ai dám quả quyết là đã quan sát, tìm hiểu và có thể bình phẩm một cách đầy đủ. Đơn giản, chỉ vì Thủ đô hôm nay quá… mênh mông.
Ảnh: internet
Tôi chợt nghĩ vậy, khi trò chuyện với cựu binh Tuấn Cương trong căn nhà của đứa cháu ở ngõ phố Khâm Thiên. Tuấn Cương quen nhiều văn nhân Hà thành, nhưng mới biết tôi, sau khi đọc Tự truyện “Số phận không định trước”. Vậy nên cậu ta nhắc một kỷ niệm trong thời đoạn “vào đời” gian nan của tôi và nói: “Bây giờ, nếu như bác có dịp trở lại Ba Thá, Tế Tiêu thì vui lắm! Khác trước nhiều lắm rồi!...” - Hà Đông là quê hương của Tuấn Cương, nên anh không giấu được vẻ thích thú và nói tiếp - “Em sẵn sàng chở bác đi…”.
Tôi thoáng chút ngạc nhiên nhưng rồi chợt nhớ vùng đất mà tôi đã góp sức xây hai chiếc cầu và “bỏ lại” một con mắt vì tai nạn bên dòng sông Đáy hiền hòa hơn nửa thế kỷ trước, nay đã thuộc về Hà Nội! Ôi chao! Một thời đã xa, hai công trường cầu ở vùng ngoại vi xa của thị xã Hà Đông xưa, nay đã là đất Thủ đô! Cũng đáng gọi là một cuộc “bể dâu”! Ờ không biết các dòng sông của nhiều miền đất nước đang bị “bức tử”, liệu những nương dâu xanh ngắt đôi bờ sông Đáy từng nuôi dưỡng bao “làng lụa Hà Đông” còn không?... Và bỗng nhớ đến Hà Minh Tuân - nhà văn Hà Nội, từng là chính ủy một trung đoàn của sư 312, tham gia chiến dịch Điện Biên, vừa được tôn vinh trong lễ kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Nhà văn rực rỡ cờ hoa tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế giữa khu Ba Đình - Hà Nội. Cũng đúng 60 năm trước, ông xuất bản tiểu thuyết đầu tay “Trong lòng Hà Nội” (1957), rồi tiếp liền là tiểu thuyết “Hai trận tuyến” (1960), được đông đảo bạn đọc hâm mộ. Nhưng đến tiểu thuyết “Vào đời” (1962), thì bầm dập, khốn khổ với bệnh công thức, ấu trĩ một thời. Tôi đã đọc “Vào đời” say sưa trong những đêm mưa rét trên công trường “vào đời” của mình bên dòng sông Đáy, để rồi “hoang mang” khi nó bị “đánh đập” tơi tả. Cho đến hôm nay, Hà Minh Tuân lại được tôn vinh, khi nhà văn đã theo bước… Thánh Gióng “bay lên trời” từ 25 năm trước, như một chiến binh làm xong phận sự với Tổ quốc, rũ sạch bụi trần, chẳng màng chi lợi lộc và khen thưởng! Dù vậy, đất nước đã Đổi Mới và hậu thế thì không thể quên ông…
Tôi rời ngõ nhỏ Khâm Thiên, từ căn nhà chật đến mức người này muốn dịch chuyển thì người nọ phải ngồi gọn xuống ghế mới có lối đi, đến khu chung cư Hòa Phát cao gần ba chục tầng, trên đường Hoàng Minh Giám, càng thấm sự “khác trước” của Hà Nội. Khu đất này, tròn 60 năm trước, còn là cánh đồng, mỗi khi tôi trở về trường muộn, sau một ngày xuống phố thăm bà con, hết giờ tàu điện chạy, phải cuốc bộ, không khỏi lo âu với cảnh hoang vắng, chỉ có tiếng ếch nhái vọng trong bóng đêm âm u. Càng ngạc nhiên khi biết căn hộ thênh thang mà đứa cháu mua cho bố mẹ về đây “dưỡng già” có giá đến 7 tỷ đồng! Mua bằng đồng tiền “sạch” - tiền lương tích lũy nhờ… “làm thuê” cho công ty nước ngoài! Và công viên quanh chung cư cũng “sạch bong”, không một cọng rác, một lá rụng, dù cây xanh tỏa bóng mát khắp các lối đi… Bỗng chợt nhớ khu tập thể Kim Liên “ngày xưa” với hành lang hẹp nồng mùi bếp than tổ ong, với căn hộ của triết gia Trần Đức Thảo có lần phát hỏa vì cháy bếp dầu mà nhà văn Phùng Quán đã tả trong một bài ký…
Quả là một thời đã xa! Chẳng nên níu giữ những điều cũ kỹ, lạc hậu với thời đại. Vậy nhưng cứ thoáng một mối lo mà không ít người đã bày tỏ: Liệu rồi đây Thủ đô sẽ là một phiên bản của Hồng Kông, Thượng Hải? Liệu còn chi là “Hà Nội” không?... Một vấn đề không dễ trả lời, không chỉ với Hà Nội - sự hài hòa giữa phát triển và bảo tồn vốn cổ, gìn giữ những dấu tích xưa, “nơi lặng hồn núi sông ngàn năm”1(*)…
Cũng may là tôi đã dành được buổi sáng, trước khi rời Hà Nội, đi dạo ra hồ Hoàn Kiếm. Ai cũng biết đây là vùng “Đất Thiêng” không chỉ của Hà Nội. Với tôi, “Bờ Hồ” - “ngày xưa” chỉ nói gọn thế thôi - là nơi hơn 60 năm trước, tôi đặt bước chân đầu tiên trên con đường kiếm sống gian nan, rồi ngày ngày bám theo những đoàn tàu điện gõ chuông lenh keng tỏa về các phố Hàng Đào, Quan Thánh, Cửa Nam, Hàng Bài, Chợ Mơ… với túi sách báo nặng trĩu đôi vai gầy. “Báo ơ… sách mới đây…”; như sợ làm tan vỡ mất kỷ niệm xưa vừa sống lại, tôi khẽ ngồi xuống chiếc ghế mới bên hồ, khép hờ mi mắt chốc lát. Thực chứ không phải mơ. Chú bé bán sách báo dạo ngày ấy đã trở thành nhà văn. Có lẽ do tầm mắt vừa choáng ngợp trước những nhà cao tầng vây quanh Hà Nội, trong buổi sáng cuối xuân, khi làn sương đêm chưa kịp tan, hồ Hoàn Kiếm như bé hơn “ngày xưa”. Thật may là bao “âm mưu” xây các công trình “đồ sộ” như tòa nhà “Hàm cá mập” đã bị chặn lại. Tháp Rùa, được sương mù như tấm khăn mỏng manh choàng quanh, càng tôn vẻ cổ kính. Quanh hồ, dưới lớp lớp những mái xanh cây cổ thụ, thành nơi cho dân Hà thành thư dãn, tập thể dục mỗi sáng. Đặc biệt, rất đông người nước ngoài, đủ mọi quốc tịch. Hèn chi quầy báo bên phố Tràng Tiền chỉ bán sách báo ngoại văn…
Có thể xây dựng hàng loạt khu nhà cao tầng hoành tráng như tôi đã thấy trên vùng Cầu Giấy, nhưng không gian quanh hồ Hoàn Kiếm thì ngàn năm chỉ có một mà thôi. Và duy nhất nơi đây, khách thập phương đã đến Hà Nội đều muốn tìm về. Còn hồ Hoàn Kiếm, còn Tháp Rùa cổ kính, còn “Hà Nội của ta, Thủ đô yêu dấu”… như lời một bài hát quen thuộc khi đất nước vừa im tiếng đạn bom…
N.K.P
(TCSH340/06-2017)
.............................................
1(*) Lời ca khúc nổi tiếng “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi.
LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.
MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).
NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.
VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.
DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.
NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )
TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.
ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.
PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.
NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư hoàn cảnh”.
ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.
DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...
TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!
LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.