Hà Khánh Linh đi dưới trời hoa phượng

14:35 11/05/2009
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

Nhà văn Hà Khánh Linh

Hà Khánh Linh sinh năm 1945, lớn lên đúng vào thời đất nước đang vào trận mới chống Mỹ. Ngày ấy Trường Sơn ghi chép chân thật những việc xảy ra với chị vào năm 1967. Từ một cô nữ sinh Sài Gòn, Nguyễn Khoa Như Ý trở về với lý tưởng đã chọn, thoát ly gia đình tham gia cách mạng lên chiến khu, làm cô giáo Trường Văn hoá Miền Tây của Trị Thiên Huế. Mùa xuân, núi rừng Trường Sơn sũng nước. Những đợt gió mùa đông bắc kéo dài cùng với mưa rả rích suốt ngày đêm, những đỉnh đồi cao chót vót, gió lạnh như cắt da cắt thịt, đường rừng lầy lội, những con suối nước dâng cao... Dưới những tán rừng nguyên sinh, trên những trục đường Hồ Chí Minh, doc tuyến 559 ngày đêm vẫn tấp nập người vào ra. Vũ khí, lương thực thuốc men, từ miền Bắc ùn ùn chuyển vào. (Sđd. tr.9)

Buổi chiều ấy, đoàn các thầy giáo cô giáo và học sinh đi làm cỏ lúa trên nương trở về, ngồi nghỉ ven một bờ suối, ngay gần một đoàn cán bộ từ miền Bắc vào cũng đang ngồi nghỉ. Có một anh cán bộ trẻ đến làm quen với cô giáo xinh xắn. Trò truyện một lúc thì biết anh là nhà thơ Bùi Minh Quốc, giờ mang tên Dương Hương Ly. Cô giáo Như Ý lúc ấy chưa biết Bùi Minh Quốc là ai, nhưng biết anh làm thơ, viết văn thì mừng quá, bèn thổ lộ ngay một việc: Cách đó hai năm cô đã làm xong một cuốn tiểu thuyết tên là Trắng Canh, lấy bút hiệu là Linh Lan Khai (vì cô yêu hai nhà văn Nhất Linh và Lan Khai), đã gởi bản thảo ra miền Bắc để xuất bản. Gởi theo đường giao liên, theo một niềm tin, như gởi vào trời đất, dù biết không chắc bản thảo ra được đến nơi, vì chỉ cần người giao liên bị bom coi như xong. Còn địa chỉ gởi thì nhờ có một hôm cầm một bìa sách trong tay thấy có Nhà xuất bản Văn học - Hà Nội, liền nhớ lấy và cứ thế ghi ra ngoài gói tài liệu. Chả biết bản thảo ấy bây giờ ra sao. Thì, như có sự xui khiến của số phận, Dương Hương Ly reo lên. Vậy thì cô khỏi lo lắng gì nữa. Bản thảo tiểu thuyết của cô đã đến được nơi cần đến, chính tôi đã được đọc nó trước lúc lên đường... Tôi xúc động nghẹn ngào không nói nên lời. Cuộc đời kỳ diệu thế, đẹp thế. Đẹp đến nỗi ta có cảm giác như nó không thực. Chỉ có cái "ảo" mới lung linh kỳ diệu nhường kia. (Sđd. tr.16)

Hà Khánh Linh kể về những cuốn sách đầu tay của mình: Cuốn Trắng Canh, tôi còn nhớ ở trang cuối bản thảo tôi đã tự trình bày ma-két, tự vẽ bìa... Còn toàn bộ bản thảo thì được viết trên quyển vở học trò 100 trang bìa xích-lô. Mỗi dòng kẻ trong đó được viết thành hai hàng chữ nhỏ li ti, nhưng khá rõ ràng, sắc sảo. Tôi viết kín cả trăm trang theo kiểu đó, viết tràn ra tận lề trang. Tất cả nhằm đạt đến sự gọn nhẹ trên vai của người giao liên từ Nam ra Bắc. Về cuốn sách thứ hai: Tôi muốn bắt tay viết ngay một cái gì đó, nhưng nhìn lại gia tài giấy bút của mình quá nghèo nàn ít ỏi. Các em học sinh còn đang thiếu giấy để học, phải đếm từng trang giấy để chia cho các em đủ học từng tuần, từng tháng một... Giấy ở đâu để viết tiểu thuyết? Và bom đạn và những rẫy sắn nương ngô bị chất độc màu da cam tàn phá đang chờ những bàn tay của chúng tôi đến cứu gấp... Tuy khó khăn thiếu thốn vậy, nhưng thỉnh thoảng những lúc rảnh tôi đã tranh thủ viết chắp vá từng mảng một cho một quyển tiểu thuyết đang hình thành trong tôi. Nghĩ mãi tôi không biết chọn tựa đề nào cho tiểu thuyết. Đã "trắng canh" rồi, không biết là gì nữa đây. Cuối cùng tôi quyết định lấy tên nhân vật chính làm tên tiểu thuyết: Thuý. Lại viết về các đô thị miền Nam... Nhân vật Khiết (nam) mang đầy đủ mọi suy nghĩ của tôi. Viết mỗi khi một ít, chừng được vài chục trang thì hết cả giấy. Tôi cuộn tròn bản thảo cất kỹ vào ba-lô. Mãi đến khi nhà trường do bom đạn ác liệt, phải gởi các em ra miền Bắc học, thầy cô giáo thì chờ việc, Như Ý mới có dịp thu gom giấy trong các vở học trò còn lại được gần 100 trang. Tôi hăm hở viết những gì ấp ủ từ hôm hết giấy viết đến nay. Viết mỗi khi một ít, kết lại thành một tập kha khá, lại nhét vào ba-lô cùng những áo xống, chăn võng, dù ngụy trang, và các thứ vật dụng khác. (Sđd. tr.21-22). Nhưng ngay sau đó Như Ý cùng Kăn Xanh một cô gái Pa-cô xinh đẹp, lại trải qua một trận bom B52, chỉ may mà còn sống, chiếc ba-lô bị bom vùi. Bản thảo cùng những vật kỷ niệm cuối cùng của cha mẹ vẫn mang theo người thế là mất trắng.

Chuyện về những bản thảo ban đầu của Hà Khánh Linh là như thế.
Khí chất Hà Khánh Linh bộc lộ rất mạnh mẽ ở chỗ dám nói và biết cách nói về những gì mình cho là phải, không thấy phải nhất định không làm, thấy phải không ai ngăn cản được. Ngày ấy Trường Sơn kể lại một câu chuyện sau đây: Hà Khánh Linh bị sốt nặng, xanh xao, không nhấc nổi mình. Có anh Giám đảng viên cộng sản, bí thư Đoàn Thanh niên, chợt ghé thăm, thương quá, bảo sẽ đi kiếm cá về cho. Ngay sau đó, nghe tiếng nổ, có tin anh Giám đã chết do vô ý khi tra kíp điện vào bộc phá. Hà Khánh Linh đau đớn cố lê lết đến nơi chôn cất anh. Tại đây cô chứng kiến một cảnh tượng gây chấn động tâm hồn: Sau khi mọi người đắp mộ cho anh, người trưởng cơ quan trịnh trọng đọc quyết định khai trừ đồng chí Giám ra khỏi Đảng, rút chức bí thư Đoàn Thanh niên. Biết rằng chiến tranh có những quy luật nghiệt ngã của nó nhưng: tôi nghe lòng mình đau như dao cắt. Nghe theo tiếng lòng mình, sau này Hà Khánh Linh viết bài thơ dài về anh Giám Những đứa con không có phần hương lửa (Trăng cứu rỗi. Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 1995):
...
            Những nẻo rừng Trường Sơn
            Nhạt nhoà trong bóng tối
            Chỉ riêng em
            Bắt gặp mắt anh nhìn
            Chỉ riêng em
            Nghe được lời cuối cùng anh nói
            Chỉ riêng em
            Anh mãi mãi là bí thư
            Đoàn thanh niên cộng sản
            Anh mãi mãi ở tuổi hai mươi hai...

            Những chiều mùa đông
            Đi trên đường phố Huế
            Nhìn lên dãy Trường Sơn
            Sương trắng dâng đầy như một biển sữa
            Anh tắm nơi nào
            Trong biển sữa mênh mông ấy?
            Những ngày hè Trường Sơn lồng lộng sắc
            Anh ngủ nơi đâu
            Dưới những tán diệp lục rì rào ấy?
            Trường Sơn như mái nhà
            Như người mẹ
            Như đền thờ
            Như khúc ru vĩnh cửu
            ấp iu - nuôi dưỡng - phụng thờ
            Những đứa con không có phần hương lửa.

Đây chính là dấu ấn thơ Hà Khánh Linh, dịu dàng đấy mà mạnh mẽ đấy, dứt khoát đấy: Anh không có phần hương lửa của cuộc đời thì Trường Sơn sẽ là đền thờ anh. Hà Khánh Linh đã dùng 6 câu thơ cuối trên đây làm đề từ cho tập hồi ký về những ngày Trường Sơn của mình. Đọc Hà Khánh Linh, tôi nghĩ không thể không đọc Đi dưới trời hoa phượng. (Vũng chân mây - Tập truyện - Nxb Đà Nẵng 1999). Nhân vật Thiết người kể chuyện, xưng tôi, trong Đi dưới trời hoa phượng là một người có đầy đủ khí chất một người thông minh hăng hái, mạnh mẽ, hay giúp đỡ người, đầy khát vọng. Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, anh đã hai lần ra Bắc vào Nam. Nhưng Thiết đến lúc này đã là thương binh, trở về hậu phương điều dưỡng. Cái thời của anh đã thay đổi. Nhưng hình như anh không nhận ra điều đó. Chính trong cuộc điều dưỡng này do lòng tốt mà anh trót sa vào cạm bẫy cuộc đời khiến lâm vào tình thế tiến thoái đều khó. Một buổi chiều xuống xe lửa, anh giúp một cô gái khiêng một túi hàng nặng. Hôm sau cô đến viện điều dưỡng cảm ơn và mời anh đến nhà chơi. Mọi chuyện bắt đầu đơn giản chỉ có thế. Ngay trong lần đến nhà đầu tiên ấy anh sa vào vòng tay cô gái. Rồi sau không gỡ ra được vì cô có mang. Họ thành vợ thành chồng, đẻ con và di chuyển vào Huế. Từ đây những thử thách cứ thế diễn ra dưới trời hoa phượng, và cũng bắt đầu từ cô gái quê, cô đã nhanh chóng thay đổi, chủ động từng bước lôi cuốn anh vào cuộc, tận dụng những chuyến đi công tác có xe để buôn trầm. Cuộc giằng xé, vật vã đau đớn đã diễn ra bên trong cái vẻ ngoài êm dịu của cuộc sống gia đình, khiến cho anh một mặt vẫn tỏ ra là người tài trí (trong giao dịch, trong biên tập, dịch thuật, cả trong chăm sóc vợ con) nhưng mặt khác cuối cùng không thoát khỏi lưới đời, bị tù, bị liệt nửa người... Có lúc anh đã thốt lên: Hình như ông trời chưa hề có ý dừng lại các trò diễu cợt trên thân phận con người, ông trời lại tiếp tục thử thách lòng kiên nhẫn và sức chịu đựng của tôi. (Sđd. tr 286). Nhưng không phải thế, cũng đã có lúc ông trời hé ra một lối thoát, đó là trong khi anh đang phải vẫy vùng để tìm lối ra khỏi những bối rối, anh biết Phượng người tình đầu của anh ở gần đó, nàng vẫn chờ anh, nàng đang sống lành mạnh, như anh mơ ước, nhưng anh đã bỏ qua. Nhưng nhân vật của truyện đã không thể, không đủ sức vùng vẫy thoát ra khỏi cái bẫy của cuộc đời.

Cũng cái âm hưởng của Đi dưới trời hoa phượng, Hà Khánh Linh viết Người cắm hoa nhà thờ, theo tôi thành công hơn, có lẽ chính chị đã gửi mình vào nhân vật người cắm hoa tài hoa này. Lộ Đức là tên nhân vật, do cha mẹ lấy tên một giáo xứ đặt cho, để cầu chúa ban phước cho cô bé. Một con người mà khí chất mạnh mẽ bộc lộ ngay từ nhỏ. Cô bé học giỏi, cả văn lẫn võ. Giỏi hội họa. Yêu ai yêu hết mình. Nhưng không vì yêu mà tự đánh mất mình. Đã từng làm tổng thư ký một tờ nguyệt san của một dòng giáo hội, mang tên Phương Đông. Ngay trong thế giới chống cộng (ở miền Nam VN trước 1975), đem lòng yêu quý Nguyễn Aái Quốc, không ngần ngại vẽ chân dung Nguyễn treo trong phòng, bên ngoài phủ một tấm lụa hoa. Trong cuộc tổng tiến công của quân và dân ta tết Mậu Thân 1968, Lộ Đức đã từng giấu ngay trong phòng mình và cứu chữa hai thương binh của ta sau đó tự tay lái xe đưa hai anh về vùng giải phóng. Vụ này lộ dần ra, cha cô, một chuyên gia trong ngụy quyền đã vất vả, tốn kém rất nhiều để chạy chọt cho qua. Nhưng Lộ Đức không bao giờ cho đó là việc ủng hộ cách mạng, chỉ khoanh lại là việc nhân đạo. Sau này khi cách mạng thắng lợi cô cũng không bao giờ kể lại như một thành tích. Một tính cách mạnh mẽ là như thế. Bước ngoặt của nhân vật bắt đầu từ tháng Ba năm 1975, Huế được giải phóng. Lộ Đức quyết định ở lại với giáo xứ, đi chiêu tập những người do sợ hãi chính quyền mới mà trốn lánh đi. Lộ Đức trở thành cốt cán của cách mạng. Nhưng tất cả những cái đó chỉ diễn ra có 22 ngày. Ngay sau đó Lộ Đức bị gọi lên chất vấn và làm tình làm tội đủ điều, đối với một người mà trong lý lịch có quá nhiều điều để cách mạng "đặt vấn đề". Với tất cả khí chất hăng mạnh, Lộ Đức đã trả lời những câu hỏi chất vấn một cách đanh đá, sắc sảo, không phải không có những chỗ đuối lý. Cuối cùng Lộ Đức phải chịu nguy khốn, bị cắt hộ khẩu, cắt sổ gạo, tem phiếu, một tuần phải hai lần đến cơ quan quản lý chịu thẩm vấn.

Nhưng khác với Thiết trong Đi dưới trời hoa phượng, Lộ Đức ở đây không chịu thất bại. Như có sự mách bảo của số phận, cô biết chịu khó nhọc và khéo léo lách mình qua thử thách, vượt lên. Bởi vì cũng khác với Thiết, cô là một trí thức, cái khát vọng của cô là cái đẹp thuần khiết. Cô thu mình lại và trở thành người cắm hoa cho nhà thờ, mỗi ngày cắm 12 bình hoa, mỗi bình hoa như một tác phẩm nghệ thuật. Để rồi đến một ngày không hẹn trước, những điều tốt lành lại đến với Lộ Đức, có những người chân thật, hiểu biết, "những học trò thật sự của Nguyễn Aái Quốc" theo cách nghĩ của cô lại xuất hiện trong đời sống thường ngày của cô, khiến cô tưởng mình vừa sang một thế giới khác.

Hà Khánh Linh còn gửi mình trong các nhân vật của Ngọc Quỳnh Tương, Con gái người cung nữ, Đậu ngự, Chim hạc đen... viết sau những năm Chín Mươi. Những chuyện cứ như ở trên trời rơi xuống, đúng là chuyện ở trên trời, nhưng khi nó rơi xuống thì nó soi vào nhân gian trở thành câu chuyện của chính nhân gian. Chim hạc đen là một chuyện như vậy. Một nàng công chúa xinh đẹp, thông minh, trên hành trình đi tìm cái đẹp lý tưởng của mình, bỗng gặp được chim hạc đen tu luyện lâu năm thành tiên. Chim đã cho nàng một chiếc lông mi gắn trên mắt, nhờ nó mà từ nay nàng nhìn rõ chân tướng mỗi con người, cái tốt cái xấu, biết bao sự thật cuộc đời phơi bày trước mắt nàng. Nàng đã thú thực với vua cha khả năng kỳ diệu đó. Vẫn tưởng phụ vương hết sức hoan nghênh, ai ngờ vua lại từ chối cái điều huyền diệu đó và khinh ghét nàng, cho người tìm cách hại nàng. Ông vẫn muốn bao quanh mình cái sự thật về sự giả dối, xu phụ, phản trắc, những cái đã trở nên quen thuộc trong đời sống của ông. Bởi vì với chiếc lông mi chim hạc đen, trong con mắt nàng, chính ông cũng trở thành... một con thú.

Đã hình thành một bút pháp kể chuyện, thiên về tính khái quát hơn là gợi cảm, duy lý hơn là duy mỹ. Bút pháp này có cái hay của nó, tiếc thay có vẻ như nhà văn chưa dụng công hoàn chỉnh. Đi dưới trời hoa phượng là một truyện có sức lôi cuốn nhưng chưa cho người đọc cái mỹ cảm văn chương. Tác giả chỉ mới phác thảo một hành trình số phận, chị chưa dừng lại ở những giằng xé phân thân, những giây phút lựa chọn đầy kịch tính, những chấn động tâm hồn sau những thất bại.

Bút pháp đó cũng chi phối ngòi bút chị khi chị tả phong cảnh. Cảm giác không gian bao giờ cũng chiếm ưu thế. Do cảm giác không gian mạnh nên khi tả phong cảnh, chị thiên về những cảnh đẹp bao quát như một vùng trời: hoa phượng, một vũng Chân Mây... Những câu thơ dưới đây tôi trích trong Những bọt bóng màu của tác giả Nguyễn Khoa Như Ý (Thơ. Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 1998) cho biết thêm điều đó:
            Dải mây hồng vắt ngang lưng trời
            Ôm khuôn trăng trinh nguyên và tái nhợt
            ... ... ...
            Ở đây mùa hạ mới bắt đầu
            Những tia lửa trên vòm phượng
            Xanh ngút bờ nam sông Hương
            Phượng ở Phu Văn Lâu
            Phượng trên đường Đoàn Thị Điểm        
            Những chú bé vác cù nèo
            Trèo bẻ những cành phượng khô
            Dự trữ cho mùa thu Huế
                                   
(Mùa hạ Huế)

Khi người yêu định ngắt một cành mẫu đơn tặng mình, nhà thơ không ngần ngại thốt lên:
            Xin hãy dừng tay
            Bởi em muốn chiêm ngưỡng cái đẹp
            từ xa
            Anh ơi
            Khi phải mượn sắc hoa
            Làm màu áo cho mình
            Em còn hổ thẹn nữa là...
            Đem cả đời hoa
            Làm điểm tựa
            Cho tâm hồn yếu đuối của em.
                                   
(Màu áo màu hoa)

Cuối năm 2000, tôi gửi cho Hà Khánh Linh và phác thảo một số ý kiến về hành lang văn chương của chị. Hà Khánh Linh đã viết thư trả lời. Tôi đã xin phép tác giả trích vài đoạn thư nhằm giúp bạn đọc biết thêm những khía cạnh lý thú khác một khi chính nhà văn biết cái "mệnh" văn chương của mình.
Khi em còn nhỏ em đã sớm bộc lộ cái chí lớn của mình rồi; đến nỗi thầy em cũng bảo rằng con nầy là gái mà có cái chí của nam nhi, vá trời lấp biển được đó. Trong Ngọc Quỳnh Tương, người cha đã nghĩ về con gái của mình như thế, đấy chính là ý nghĩ của cha em về em đấy. Tuổi nhỏ em chỉ biết học và học, chứ không ham bạn bè, học đến nỗi cha mẹ phải giấu bớt sách vở đi, cho nó nghỉ ngơi một chút, học thế phát điên mất. Khi đi làm việc thì chỉ biết việc và việc. Phạm Phú Phong một lần viết chân dung HKL đã nói: "(...) là  một viên chức mẫn cán". May sao viên chức mẫn cán ấy vẫn viết đều, chứ nếu không thì đời còn chán nữa. Nói chung việc nước việc nhà của em luôn có những trắc trở, những giằng xé như phác thảo của anh. Em chỉ còn cách gạt bỏ những đau đớn, nhức nhối, tìm kiếm, chắt chiu từng giọt thời gian để sáng tác. Vui với người trong truyện. Tạo ra nhân vật đồng điệu tâm hồn để chia sẻ với mình. Đọc những truyện như Đậu ngự, Ngọc Quỳnh Tương, Nỗi buồn của chúa, Chim hạc đen, Là bóng hay là hình, Trăng cứu rỗi... anh em văn nghệ ở Huế thường đùa Hà Khánh Linh toàn yêu và viết về Chúa, Phật, hoàng đế thi sĩ, thánh nhân,... chứ không yêu một con người cụ thể nào. Vậy hoá ra mệnh của em là như thế ư? Nơi đây em có chơi thân với một nữ tu sĩ là tiến sĩ thần học, có lần em tâm sự với bà ta: Thân phụ tôi chẳng may đã mất đi, nhưng nếu ông còn sống ắt ông đau lòng lắm khi nhìn thấy đứa con mà ông kỳ vọng nhất thì suốt cả cuộc đời luôn dằn vặt đau đớn vì những gì muốn làm đều không làm được, hoặc làm được rất ít so với mong muốn. Không lúc nào tôi cảm thấy bình yên, lúc nào cũng trăn trở, vừa đau đời vừa đau thân...

X.C
(170/04-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HUỲNH NHƯ PHƯƠNG    

    Một ngày giáp Tết Canh Tý, Từ Hoài Tấn* mời bạn bè đến quán cà phê nhìn sang Vương Cung Thánh Đường dự ra mắt tập thơ tuyển của ông (Thơ Từ Hoài Tấn, Nxb. Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2020).

  • NGỌC BÍCH
        (Đọc "Thơ Ngô Kha"*)

    Bây giờ là năm 1992. Anh hy sinh đã gần 20 năm. Tập thơ của anh đã xuất bản được một năm nhờ những bạn bè thân quen và những người yêu mến thơ anh. Tôi là người đến muộn. Nhưng như người ta vẫn nói "dẫu muộn còn hơn không". Nhất là ở đây lại đến với MỘT CON NGƯỜI.

  • PHẠM XUÂN DŨNG  

    (Nhân đọc tập tản văn Ngoại ô thương nhớ của Phi Tân, Nxb. Trẻ, 2020) 

  • HỒ THẾ HÀ     

    Lê Văn Ngăn, sinh ngày 15 tháng 01 năm 1944, tại Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Học, trưởng thành và tham gia phong trào học sinh, sinh viên yêu nước ở Huế (1965 - 1975). Là phóng viên Đài Phát thanh Huế (1975 - 1978).

  • PHẠM TRƯỜNG THI  

    Trong số các nhà thơ thời tiền chiến người quê gốc Nam Định, có ba nhà thơ mặc dù khác nhau là không được sinh ra cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cùng một miền đất nhưng họ lại rất giống nhau là đều khóc tiếng khóc chào đời nơi vùng đồng chiêm trũng, nghĩa là nơi được xem là những cái rốn nước của tỉnh Nam Định.

  • HỒ HUY SƠN  

    Năm 2019, văn đàn Việt chứng kiến một cuộc chuyển giao trong đời sống văn học trẻ nước nhà. Thế hệ 8X vẫn cần mẫn viết nhưng có xu hướng trở nên lặng lẽ hơn; trong khi đó, thế hệ 9X lại đang có một sức bật không kém phần táo bạo, bất ngờ. Bài viết dưới đây nằm trong sự quan sát mang tính cá nhân, với mong muốn đưa đến người đọc những nét nổi bật trong năm qua của văn chương trẻ.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trong mấy thập niên gần đây, cái tên Nguyễn Thị Thanh Xuân không còn xa lạ với độc giả trong cả nước.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong một tiểu luận bàn về Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại, học giả Trần Đình Sử xem “ngoại biên hóa chủ yếu là phương thức tồn tại thông thường của văn học”.

  • HỒ THẾ HÀ

    Mấy mươi năm cầm bút đi kháng chiến, Hải Bằng chỉ vỏn vẹn có 1 tập thơ in chung Hát về ngọn lửa (1980) ra mắt bạn đọc.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi. 

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong thế hệ những nhà văn tuổi Canh Tý đương thời (sinh năm 1960), Hồ Anh Thái chiếm lĩnh một vị trí nổi bật. Càng đặc biệt hơn khi hình ảnh con chuột từng trở thành biểu tượng trung tâm trong văn chương ông. Nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Tý (2020), hãy cùng nhìn lại cuốn tiểu thuyết được ông viết cách đây gần một thập kỷ.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO

    • Để chọn được những áng thơ hay, những người thơ có tài, người ta thường mở các cuộc thi, và cuối cùng là giải thưởng được trao.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Nhà thơ Tố Hữu là người xứ Huế nhưng lại có nhiều duyên nợ với Quảng Trị, nhất là đoạn đời trai trẻ, đặc biệt là với địa danh Lao Bảo.

  • TRẦN THÙY MAI  

    Đọc tập sách của Nguyễn Khoa Diệu Hà, với hơn 30 tản văn, tôi có cái cảm giác như đang ngồi trên tấm thảm thần Aladin bay về một miền mà không có xe tàu nào đưa ta đến được một miền thương nhớ đặc biệt “Ở xứ mưa không buồn”!

  • NGUYỄN QUANG THIỀU  

    Có không ít các nhà thơ lâu nay coi sứ mệnh của thơ ca không phải là viết trực diện về những gì đang xẩy ra trong đời sống con người.

  • VŨ VĂN     

    Một mùa xuân nữa lại về, mùa xuân của hòa bình, của ấm no và những đổi thay của đất nước. Nhưng đã có thời kỳ, những mùa xuân của dân tộc đến vào những lúc chiến tranh vô cùng gian khổ, trong lòng nhiều người từng sống qua những năm tháng ấy lại dâng lên niềm thương nhớ Bác, nhớ giọng nói của Người, nhớ những lời chúc Tết của Người vang lên trên loa phát thanh mỗi đêm Giao thừa.

  • ĐỖ QUYÊN  

    1.
    Du Tử Lê
    thường được xem là một trong bảy nhà thơ hàng đầu của nền văn học miền Nam Việt Nam trước năm 1975, cùng với Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Đinh Hùng, và Nguyên Sa. Cây thơ cuối cùng ấy đã hết còn lá xanh giữa mùa thu này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    (Nhân đọc các tập truyện của Trần Bảo Định vừa được xuất bản)

  • LƯU KHÁNH THƠ   

    Giai đoạn giao thời ba mươi năm đầu thế kỷ XX đã chứng kiến sự thay đổi vị trí xã hội của người phụ nữ. Từ “chốn phòng the”, một số người phụ nữ có tri thức và tư tưởng tiến bộ đã mạnh dạn vươn ra ngoài xã hội, bộc lộ suy nghĩ, chủ kiến riêng và thể hiện con người cá nhân của mình.