Cả ba đan xen vào nhau, khó nhìn ra chúng nhưng vẫn có phương pháp phân tích học chỉ ra xự xâm thực lẫn nhau tinh tế đó. Trí thức luôn trồi lên bề mặt chiếm ngôi vị chủ đạo nhường chỗ sâu cho tuệ, chỗ xa cho huệ.
Đọc tập thơ mini của Hồ Thế Hà dễ thấy tứ thơ “ý tại ngôn ngoại” hơn miêu tả bằng lời. Cái thấu mà không nói được luôn hàm chứa một nỗi buồn lung linh và giới hạn không giới hạn của ngôn ngữ. Trong cái có luôn luôn có cái không tức là cái không có. Có mà không, không mà có là sự thách thức hằng hữu đến khốn cùng của trí tuệ.
Hồ Thế Hà tâm sự trong cảnh giới bàng hoàng, trống rỗng: “Con tàu lao về phía trước/ Để lại sân ga buồn/ Rỗng một toa ly biệt”! Lối ví von so sánh theo phương thức “Đoạn chương thủ nghĩa” cũng là vô lượng nghĩa. “Là thời gian thực chứng những gì đã qua/ Những gì sắp tới/ Ta thực chứng đời ta vui buồn, lầm lỗi”.
Thơ hiện đại thường là sự trình diễn mơ hồ những chân trời sự kiện, những lượng tử hạt và sóng nhưng thị hiện chỉ được một, hoặc là hạt hoặc là sóng bởi quy luật tâm bất khả nhị chi phối. Chủ nghĩa khắc kỷ luôn coi đám đông là nấm mồ của những người khôn ngoan. Ở Huế có quán cà phê Gác Trịnh: “Cà phê một mình Gác Trịnh/ âm thanh tràn kín không gian/ nấm mồ khâm liệm thời gian”. Xứ Huế có nhiều đặc sản nhưng đặc sản thuộc ngành văn hóa lại có ưu thế hơn cả. Gác Trịnh là quán cà phê được mang danh nhạc sĩ tài hoa người Huế và cả nước, rồi một phần của nhân loại. Ông còn được công chúng mến mộ, tôn sùng cùng với nhạc sĩ Văn Cao là hai gương mặt tiêu biểu của nước nhà qua mọi thời cuộc. Nếu Văn Cao giáng thiên đàng xuống phàm tục thì Trịnh Công Sơn lại nâng phàm tục lên thiên đàng. Hai nhạc sĩ thuộc hai trường phái nghịch lưu như hai dòng chảy giữa đời và đạo.
Hồ Thế Hà tích lũy vốn sống qua truyền thống hiếu học nâng tầm uyên bác trong mọi lĩnh vực, mọi nơi, mọi lúc. Nổi bật là cuộc đi phượt miền Tây xứ Nghệ. Đoàn đi có năm người, Huế 3, Nghệ 2. Nhóm Huế có Nguyễn Khắc Thạch, Võ Kim Thanh, Hồ Thế Hà. Nhóm Nghệ có thi sĩ Lăng Hồng Quang và nhạc sĩ trẻ nhất đoàn, cô Thục Khuyên. Cô Võ Kim Thanh được nhóm mời làm trưởng cho cả đoàn Huế - Nghệ. Trên đường đi có nhiều trò vui đùa, lãng mạn. Không biết Hồ Thế Hà hay Thục Khuyên ngẫu hứng sáng tác 4 câu thơ tại cổng trời Mường Lống.
Em dắt anh lên tận cổng trời
Mây núi nhìn anh… kẻ chịu chơi
Mường Lống núi mây quây tứ phía
Ai níu chân ai nỏ muốn rời!
Nói chung dù Huế hay Nghệ thì cả đoàn đang ở trên đất hồi môn của Việt - Chàm. Huyền Trân Công chúa là "món quà tơ vương" mà ông cha đã ủy quyền cho con cháu.
Rằng trăm năm cũng từ đây
Của tin gọi một chút này làm ghi.
Không biết trong tâm trạng của mỗi người có gì hay không nhưng đoàn phượt qua những thử thách vẫn tồn tại đến nay trên mỏ neo Huế - Nghệ êm đềm, trong sáng.
Hồ Thế Hà nối tiếp tâm sự: “Qua tập Thẳm Xa, tôi không dám nghĩ rằng mình đã thực hiện được những nội dung có tính lý thuyết như trên, chỉ mong gửi gắm những tình cảm và suy nghĩ của mình và các quan hệ nhân sinh, quan hệ xã hội - tinh thần mà mình cảm nhận và chiêm cảm từ cuộc sống. Vì là trong một cấu trúc ngắn gọn, lại phải tuân thủ tính chỉnh thể hình thức và nội dung nên tôi phải huy động nhiều biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, biểu tượng, đối lập, các biện pháp nói lái, dụng điển… với tư cách là những tín hiệu nghệ thuật để hỗ trợ nội dung ngữ nghĩa nhằm thể hiện một trạng thái cảm xúc và bình giá hiện thực một cách kiệm lời mà giúp hiểu đa nghĩa ngoài văn bản một cách thú vị, bất ngờ.
Dù mong muốn là vậy, nhưng trong thực hành, nhiều lúc mình cũng tự bất lực với từng suy nghĩ và ngôn ngữ của chính mình nên những bất cập và thiếu sót là không thể tránh khỏi. Duy chỉ tấm lòng yêu thơ trong tôi là thành thật và mê đắm.”
Khi ngôn ngữ hiện sinh tư tưởng
Tứ thơ lần tách vỏ trong ngôi nhà tâm hồn
Mọi tín hiệu được đánh thức!
Nhưng từ ước mơ đến hiện thực bao giờ cũng còn một khoảng cách khó có thể xích lại gần. Đó chính là hành trình đầy gian khổ và là giới hạn mà mỗi chủ thể sáng tạo luôn nỗ lực vượt qua.
Đọc tập thơ “Thẳm Xa” của Hồ Thế Hà, ta thấy ông là sự kết tinh nồng nàn, ấm áp cho tình tri kỷ, tình huynh đệ, và tình đang là…
N.K.T
(TCSH55SDB/12-2024)
Giới thiệu tập thơ đầu tiên của anh Khúc ru tình nhà thơ Ngô Minh viết: “Toàn từng làm thơ đăng báo từ trước năm 1975. Hơn 20 năm sau Toàn mới in tập thơ đầu tay là cẩn trọng và trân trọng thơ lắm lắm”.
1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001…
Nhân ngày 9/5 chiến thắng phát xít Đức.
...Đưa người ta không đưa qua sôngSao có tiếng sóng ở trong lòng?...
Những năm đầu sau ngày miền giải phóng, có mấy lần nhà thơ Xuân Diệu vào các tỉnh Nam Trung Bộ và dừng ở Nha Trang ít ngày. Đến đâu Xuân Diệu cũng nói chuyện thơ, được người nghe rất hâm mộ, đặc biệt là giới trẻ.
Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.
1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).
(Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.
Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.
Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)
Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".
Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.
Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).
Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.
Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.
Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...
Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.
LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH
Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.
Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.