Góp phần tìm hiểu quan điểm xây dựng xã hội qua một số bài văn sách thi Đình triều Nguyễn (1822 - 1919)

09:44 26/08/2015


LÊ THỊ THANH GIAO

Thi Đình - Xem bảng vàng niêm yết người đỗ đạt - Ảnh: wiki

Thi Đình là kỳ Đại khoa cao nhất trong thời kỳ phong kiến. Dưới triều Nguyễn, thi Đình bắt đầu tổ chức từ năm 1822 và kết thúc năm 1919. Trong các bài văn sách nhà nước đã cùng các Tiến sĩ bàn về đạo trị nước. Thông qua việc nghiên cứu quan điểm xây dựng xã hội trong các văn sách thi Đình, chúng tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm cho hiện nay.

1. Tiết kiệm trong chi tiêu và đẩy lùi tham nhũng

Trong bất kỳ một xã hội nào thì tham nhũng cũng chính là một nạn làm cho xã hội ấy yếu mòn rồi suy vong. Chính vì vậy mà từ khi thiết lập lại vương triều, nhà Nguyễn đã chú ý đến vấn đề chống tham nhũng. Đặc biệt dưới thời trị vì của vua Minh Mạng với bản tính thông minh và quyết đoán, ông đã có nhều chính sách thiết thực, quyết tâm đẩy lùi tham nhũng, làm sạch chốn quan trường. Vấn đề này, còn được đề cập đến trong một số bài văn sách thi Đình của các Nho sĩ, thể hiện nhãn quan chính trị của mình qua các lần thi tuyển chọn nhân tài. Trong bài văn sách của mình, khi trả lời về nội dung “lương thực” mà nhà vua hỏi trong chế sách, Nguyễn Khuyến cho rằng: “Gần đây, việc quân phi hơi rộng nên phải đặt sở bình chuẩn, phải mở đồn điền, phải thi hành lệnh quyên, chuộc mà của dùng chưa thấy dồi dào. Phải chăng là của cải quá nhiều không đủ, hay là có duyên cớ khác?” [2;618]. Đồng thời trong bài văn sách của mình ông đã rút ra nguyên nhân của nó là “xét ra là tập tục làng xóm xa xỉ, đồ dùng ăn mặc xa hoa, đó là “cái chén thủng đáy” vậy. Chốn đồng điền nhiều con em chơi bời, lười nhác. Nơi tổng xã có cường hào sâu mọt đục khoét (...) đó là cái gốc của sự thiếu thốn vậy” [2;618]. Nguyễn Khuyến đã nhìn thấu được tác hại của nạn tham nhũng làm cho hao mòn quốc khố, làm cho tiền bạc của nhà nước trở nên túng thiếu, nhân dân mất niềm tin vào nhà nước, vào triều đình. “Xét ra bọn thư lại trông coi chẳng qua chỉ là sổ sách, văn án, từ trát mà thôi, công việc nào có bao lăm, suốt năm ngồi trơ, lo mưu béo thân, không thể không nhiễu hại dân. Dân bị chúng nhiễu hại thì người thích chuộc tội không dám chuộc, thích quyên tiền không dám quyên” [2;618].

Nguyễn Khuyến đã trình bày ý kiến xây dựng của mình trong việc quản lý đất nước bằng những việc rất cụ thể để tiết kiệm chi tiêu cho nhà nước, trong đó có cả nội dung ngăn chặn tham nhũng xảy ra từ đội ngũ quan lại. Ông cho rằng “từ nay những việc như tập tục xa xỉ, ăn mặc xa hoa, con em lười nhác, hào cường bóc lột... Nhất thiết đều cấm hết mà cấm một cách dứt khoát. Ở các nha môn trong kinh ngoài tỉnh, tùy chỗ nhiều việc, chỗ ít việc, hoặc chỉ để năm sáu người, hoặc chỉ một hai người, hoặc hai huyện gộp lại làm một huyện, hoặc ba huyện gộp lại làm hai huyện cùng với bọn cai lại ở hiện trường, nhất thiết bớt đi một cách dứt khoát” [3;256]. Với bản tính thông minh, Nguyễn Khuyến đã nói rất nhiều về nguyên nhân và tác hại của nạn tham nhũng và lãng phí tiền bạc của nhà nước đối với xã hội.

Một sĩ tử khác là Nguyễn Viết Bình khoa thi Đình năm 1889 cũng trình bày quan điểm của mình về chi tiêu của nhà nước trong bài văn sách của mình ông thể hiện như sau: “Cúi xin thông sức cho hữu ty, trước hết thống kê số thu vào một năm rồi sau định ra kinh phí, như cung đốn cho tế tự tôn miếu, yến hưởng, tuế thời, tiết tự, tân khách, yến tiệc, cùng số bổng lộc của trăm quan, lương cho binh lính lại viên các hạng, đều có quy định rõ, như Cửu thức “giao lạo, phí ban” trong Chu lễ. Ngoài ra các việc nếu có thế giảm bớt được kinh phí thì dần dần giảm đi, khiến cho không trái với phép tắc của lễ, cũng không bỏ mất việc thường. Vậy thì sự lưu thông của tiền của có thể hạn chế được. Lại ở núi rừng khoảng thổ lập ra đồng điền, doanh điền, ở cửa biển thì cẩn trọng thuế gỗ, thuế muối, ba bốn năm sau liên tiếp được mùa thiên hạ no đủ, mà nước cũng được giầu vậy. Lục Chí có nói rất hay rằng: “Không biết tiết kiệm thì tuy đầy đủ cũng cạn kiệt, biết tiết kiệm thì trống rỗng cũng có thể đầy đủ” [7;538]. Ở đây, tác giả bài văn sách cho rằng cần phải chi tiêu một cách hợp lý không lãng phí nhưng không bỏ được những việc cần tiêu. Mà theo ông thì làm sao để “không trái phép tắc của lễ” nhưng cũng “không bỏ mất việc thường”.

Như vậy, qua một số bài văn thi Đình cho thấy, bài thi gắn liền với thực tế quản lý đất nước. Chính vì vậy, nhà vua có thể cho phép các sĩ tử được nói lên quan điểm của mình về vấn đề đặt ra trong đề bài. Từ quan điểm đó các sĩ tử sẽ đưa ra ý kiến của mình về việc thực hiện. Có thể thấy, không những nội dung bài thi mang tính thực tế mà chính cuộc thi đó cũng có tính thực dụng rất cao. Rõ ràng với thời kỳ hiện nay, đất nước Việt Nam đang có nhiều khó khăn trên lộ trình xây dựng Xã hội Chủ nghĩa như: phúc lợi xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng,... thì vấn đề chống tham nhũng, tiết kiệm chi tiêu vẫn là một vấn đề rất cần thiết đối với đất nước ta.

2. Quan điểm về trọng dụng nhân tài của các Tiến sĩ trong văn sách thi Đình

Dưới triều Nguyễn, việc đào tạo, tìm kiếm và sử dụng những tài năng trong xã hội vào việc trị nước rất được coi trọng. Bằng chứng là, nhà nước có định ra lệ tiến cử để tìm kiếm nhân tài, và xây dựng hệ thống, giáo dục và khoa cử khá hoàn chỉnh trong các cấp đơn vị hành chính để bồi dưỡng các tài năng văn học vào việc giúp vua cai trị thiên hạ. Trong các bài văn sách thi Đình, khi bàn về đạo trị nước, các Tiến sĩ cũng có nhiều người bày tỏ quan điểm của mình để nói về vai trò của nhân tài trong việc trị nước. Trong bài văn sách của mình, Tiến sĩ Nguyễn Ý khoa thi Đình đầu tiên (1822) cho rằng: “Trị nước không gì quan trọng hơn nhân tài, tìm khắp hỏi rộng, thu nhận rộng, bồi dưỡng khắp, làm thế nào để có thể khiến cho chia mưu, chung nghĩ, sáng rõ công việc để đưa đến hiệu quả vô vi [6; 641]. Cùng một nội dung nói về vai trò của nhân tài đối với đất nước, Tiến sĩ Nguyễn Văn Phú khoa thi Đình năm 1844 bày tỏ quan điểm: “Thần trộm nghĩ rằng: Hiền tài đông đúc, nước nhờ thế mà hưng. Đại khái đưa đến thịnh trị quan hệ với việc được người, mà dùng người là để mưu tính chính trị vậy. Từ một tâm thuần túy mà thông suốt, thì anh hiền đông đúc, vui vẻ được sử dụng, không đợi phải tận tai, bảo tận mặt. Mà thiên hạ đã trị rồi” [7;234]

Thông qua đó, các tiến sĩ cũng đã đưa ra ý tưởng của mình để xây dựng đội ngũ hiền tài cho xã hội. Theo bài văn sách của Tiến sĩ Nguyễn Ý thì cần phải đào tạo từng bước để đào tạo nên đội ngũ hiền tài cho đất nước sử dụng.“Ngày dầm tháng thấm, phả vào mắt, rót vào tai, có thể đạt hiệu quả “sau một đời sẽ có nhân. Cho rằng, trị nước không gì quan trọng bằng nhân tài, mừng thánh triều để thực sự được người, nhưng mong chia mưu cùng lo, làm sáng tỏ công việc, ắt giữ chức đều là quân tử” [6;655]. Theo quan điểm của Tiến sĩ Nguyễn Ý khóa thi Đình năm 1822 thông qua bài văn sách của mình thì hiền tài quả thực như những vật báu trên đời. Theo ông, nhân tài như “châu ở biển, ngọc trong núi tìm rất khó khăn, bồi dưỡng hết mức mới thu vét được ẩn sót. Vì thế cổ nhân mới có nỗi lo thiếu nhân tài vậy. Vâng điều thánh thu vét hiền tài, chọn lựa thu khắp, không để sót cỏ chỉ ở khi, hoa lan trong núi. Đường cầu hiền đã rộng, những các sĩ tỏ rõ ở đức thường tự sẽ thu hút vào triều đình “người chín đức đều được làm việc”. Với người xưa thì khó ở được người, mà ngày nay được khắp thì lại không khó vậy” [7;236]. Văn sách thi Đình của Hoàng Đình Tá lại quan điểm tăng cường mở rộng giáo dục để tìm kiếm nhân tài, ông cho rằng: “Ân khoa, chính khoa, thi Hương, thi Hội theo thời mà mở, cầu hiền không phải là không rộng. Ban chiếu cầu hiền, thời thịnh đã nhổ cỏ cả đám. Dưới ơn thu nhận rộng, bồi dưỡng khắp, người tài cao đức lớn tưởng đã như đời đế Nghiêu ngoài đồng nội không bỏ sót người tài” [6;207].

3. Tư tưởng nuôi dân thông qua một số bài văn sách thi Đình

Trong các bài văn sách thi Đình, các Tiến sĩ cũng bày tỏ tư tưởng rất cần thiết là an dân. Tiến sĩ Hoàng Xuân Hiệp trong bài văn sách thi Đình của mình ông cho rằng giáo hóa dân chúng là một việc làm cấp bách đối với nhà nước. “Giáo hóa là việc gấp của quốc gia, sao có thế coi thường? Phong tục và việc lớn của thiên hạ, sao có thể khinh mạn? Ắt giáo hóa phải tốt đẹp rồi sau mới có thể đổi dời phong tục. Nếu như giáo hóa không tốt đẹp thì sẽ bị phong tục đổi dời, hai điều đó phải hợp làm một mà xem, không thể tách ra làm hai được. Xưa thánh nhân làm vua làm thầy dân, đặt chia quan chức, có Tư đồ, nhạc Chính ra để làm trưởng, vào để cai trị. Điều mục dạy dân thì có “ba đức” chí kính, “ba hạnh” hiếu thuận. Có đức như thánh, trí, trung, hòa... Có sáu hạnh như hiếu, hữu, mục, nhân... [7;274].

Văn sách thi Đình của Nguyễn Viết Bình cũng cho rằng chính trị ở chỗ nuôi dân. “Ý úy lạo, chiêu vời ổn định, tập hợp của thơ hồng nhạn. Đó là chính trị an dân của Chu Tuyên Vương. Thi nhân có lời ca ngợi. Hán Tuyên Đế lớn lên nơi làng xóm, biết nỗi khổ của trăm họ. Đến khi lên ngôi hoàng đế nói rằng: dân được yên là do chính trị công bình mà án kiện được giải quyết. Cùng với ta làm việc đó, có lẽ là các thú lệnh hai nghìn thạch tốt chăng? Qua đó thấy, dân vui buồn là do các quan thú lệnh. Muốn được người xứng đáng thì phải tìm Nho lâm. Cho nên nói rằng: “người trung hiếu giữ lòng gần với hậu lại viên được rèn dũa giữ lòng gần với bạc”. Ắt phải có tấm lòng trung hiếu thì sau mới có thể làm cha Thiệu mẹ Đỗ của dân vậy. Trị tích của các quan địa phương tốt, đời nào cũng có người” [7;539]. Trong bài văn sách thi Đình của mình, Tiến sĩ Nguyễn Viết Bình mong muốn “triều đình hạ lệnh cho dân chấn hưng các việc, vốn cầu làm lợi cho dân. Việc mà đến mức sinh tệ là do dưới sự thừa hành, các quan thú lệnh bất lực mà mướn việc để gây nhiễu vậy. Cúi xin ban xuống chiếu thư, sắc rõ cho phương mục, thú lệnh phải nên cốt bớt việc, an dưỡng sức dân thì việc hại dân sẽ hết, mà chính sách yêu dân mãi còn. Trăm họ quầy tụ ngày một khởi sắc, đường lối đã ở đó vậy” [7; 541 -542].

Như vậy, qua một số bài văn sách cho thấy được tính thực tiễn của nội dung. Đó có thể coi là những “bản tấu” lên triều đình về đường lối trị nước. Các vấn đề đặt ra trong các bài văn sách thi Đình đều là những vấn đề cốt lõi để xây dựng xã hội thịnh trị. Những bài văn sách có tính thực tế cao, nhưng chính kỳ thi cũng mang tính thực dụng rất lớn. Chúng tôi cho rằng đằng sau việc kén chọn nhân tài ra làm quan giúp vua cai trị, thì nhà nước như thông qua kỳ thi Đình để tham khảo ý kiến thực thi về những vấn đề cốt lõi liên quan đến thịnh suy của xã hội. Những vấn đề như tham nhũng, lãng phí trong chi tiêu nhà nước, chính sách trọng dụng hiền tài hay những cách thức nuôi dân... đối với chúng ta hiện nay vẫn còn nguyên giá trị. Đề bài thi gắn liền với thực tế trong các bài văn sách thi Đình dưới triều Nguyễn thực sự cho chúng ta phải suy ngẫm. Có chăng, theo chúng tôi, cần nhấn mạnh yếu tố thời sự trong các đề thi Đại học, Cao Đẳng, Cao học và trong công tác đào tạo của nước ta hiện nay. Điều đó, trong xu thế hội nhập này quả thật rất cần thiết.

Trên đây cũng không phải là tất cả những nội dung đã được đề cập đến trong văn sách thi Đình dưới triều Nguyễn, nhưng chúng ta có thể nhận thức bước đầu về một số điểm trọng yếu trong học vấn chính trị thời trước. Từ những nội dung được mang vào khảo thí trong kỳ thi Đình, chúng ta nhìn thấy quan niệm, cách nghĩ của nhà cầm quyền và sĩ phu đối với vấn đề chính sự. Nếu khoa cử được tin là con đường để nhà vua cầu hiền tài, để triều đình xem xét học vấn của sĩ tử mà xét chọn người làm quan trong tương lai, thì khoa cử đối với kẻ sĩ cũng là bước đường đầu tiên của sự nhập thế hành đạo. Đó thật sự là những thành tố lịch sử văn hóa đầy ý nghĩa trong các bài văn sách nói chung và văn sách thi Đình dưới triều Nguyễn nói riêng.

L.T.T.G
(SH318/08-15)


---------------------
1. Huỳnh Công Bá (2012), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
2. Nguyễn Văn Huyền (2002), Nguyễn Khuyến tác phẩm, Nxb. TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
3. Lê Thị Thanh Hòa (1998), Việc đào tạo và sử dụng quan lại dưới triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1884, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 4a, (bản dịch), Nxb. Thuận Hóa, Huế.
5. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 7, (bản dịch), Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Thịnh (chủ trì) (2010), Văn sách thi Đình Thăng Long - Hà Nội, tập 1, Nxb. Hà Nội, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Thịnh (chủ trì) (2010), Văn sách thi Đình Thăng Long - Hà Nội, tập 2, Nxb. Hà Nội, Hà Nội.  







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VIẾT ĐIỀN   

    Chính sử triều Nguyễn chép mộ vua Quang Trung được táng ở vùng Nam sông Hương và đã bị quật phá.

  • VÕ VINH QUANG     

    Thanh Bình từ đường, thờ tổ nghề hát bội của triều Nguyễn, tọa lạc ở kiệt 281 đường Chi Lăng, thành phố Huế là một địa điểm quan trọng trong truyền thống văn hóa nghệ thuật của đất Cố đô.

  • CHÂU THU HÀ

    Trong những năm qua, xây dựng văn hóa doanh nghiệp (VHDN) đã và đang được các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng quan tâm thực hiện.

  • PHƯỚC VĨNH

    Nói đến những tiềm năng phát triển của Huế là nói đến các yếu tố thiên nhiên, lịch sử văn hóa, trong đó có yếu tố sông, núi, cỏ cây và con người; là nhắc đến những bài thơ sâu lắng, những giai điệu mượt mà…

  • LGT: Cuốn sách Florette ou la rivière des parfums của tác giả T. Trilby(*) được dịch sang tiếng Việt với nhan đề Chuyện bên dòng sông Hương(**). Bối cảnh câu chuyện xảy ra ở Huế và vùng phụ cận vào thập niên 1920 của thế kỷ XX.

  • PHAN THUẬN AN

    Nghệ thuật cung đình là những loại hình nghệ thuật gắn bó thiết thân với sinh hoạt tinh thần và vật chất của giới cầm quyền tại kinh đô dưới các triều đại quân chủ ngày xưa.

  • PHAN TÂN

    Trong năm 2018 vừa qua, ngoài kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh cũng đã triển khai những chương trình đột phá, công trình trọng điểm, tập trung lãnh đạo, tạo tiền đề, động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển theo hướng nhanh, bền vững. Các chương trình này có ý nghĩa hết sức quan trọng, tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương…

  • NGUYỄN VĂN CƯƠNG - NGUYỄN VĂN KHÁNH

    Trong chuyến đi điền dã khảo sát di tích tại khu vực Phường Thủy Xuân, TP Huế. Chúng tôi tình cờ phát hiện một di chỉ cổ nằm lẫn khuất trong những tán cây rậm rạp trên vườn đồi của làng Dương Xuân thượng trước đây. Vạch lá dò dẫm tìm vào, chúng tôi mới nhận ra nơi mình đặt chân đến chính là một Văn Miếu, nơi thờ phụng vị Thánh về Văn, người mà được hậu thế tôn vinh là Vạn thế Sư biểu (người thầy của muôn đời), Đức Khổng Tử. Ngôi miếu nằm lọt thỏm trong những tán lá, bụi cây. 

  • HỒ VĨNH

    Đại bác là một từ dùng chung cho tất cả các loại trọng pháo hay súng lớn. Tiền thân của chúng là những máy ném đá (Thạch pháo) ra đời cách đây 1.000 năm. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII ở Việt Nam đã xuất hiện các loại pháo bằng đồng và pháo bằng sắt mà ngày nay chúng ta thường gọi là súng thần công.

  • KIM THOA

    Chè bán ban ngày, ban đêm. Chè gánh, chè xách, chè ăn trên bờ, chè thưởng thức dưới đò. Huế bán đủ thứ chè, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, nhưng ít thấy chè hột sen.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    Hoàng tử Cảnh (1780 -1801) là con trưởng của vua Gia Long. Trong thời gian chống nhà Tây Sơn, hoàng tử Cảnh đã theo Bá-đa-lộc sang Pháp cầu viện cho họ Nguyễn. Hoàng tử Cảnh theo Thiên chúa giáo và được giám mục Bá-đa-lộc rất thương yêu.

  • THƠM QUANG - THANH BIÊN

    Trong khối tài liệu hiện đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV có khá nhiều tư liệu liên quan đến trường Bách Công xưa (tức trường Cao đẳng Công nghiệp Huế ngày nay). Bên cạnh tài liệu tiếng Pháp thuộc phông Tòa Khâm sứ Trung kỳ, chúng tôi cũng xin được cung cấp thêm một số thông tin quan trọng về trường Bách Công xưa được ghi chép trong các bộ chính sử của triều Nguyễn.

  • NGUYỄN THÁI SƠN*     

    Đồng chí Nguyễn Chí Diểu (1908 - 1939) là nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam.

  • TRẦN ĐÌNH HẰNG - LÊ ĐÌNH HÙNG  

    Trải qua nhiều vấn nạn của thiên tai, địch họa mà đến nay, tài liệu nghiên cứu về thời chúa Nguyễn Đàng Trong rất hiếm hoi. Vì vậy, tài liệu lưu trữ từ gia tộc sẽ góp phần thiết thực để soi rọi một số chi tiết bổ sung cho chính sử.

  • LÊ VĂN LÂN

    Huế là đô thị không chỉ trong nước mà cả thế giới tôn vinh với nhiều danh hiệu cao quý. Nhưng đứng trước những danh hiệu này, bản thân người Huế cũng thấy đang còn nhiều khoảng cách lớn.

  • LÊ QUANG THÁI

    Ngày xuân còn dài, xin kể vài mẫu chuyện dê tiêu biểu trên đất kinh kỳ văn vật cốt chỉ mua vui chốc lát trong hương vị của ngày Tết cổ truyền.

  • PHAN THUẬN AN

    Cũng như các triều đại quân chủ khác trong lịch sử Việt Nam, triều đại nhà Nguyễn (1802-1945) đã lập ra tại kinh đô một cơ quan chuyên trách về y tế, gọi là Thái Y Viện, để chăm lo sức khỏe cho hoàng gia và điều hành công việc chữa bệnh cho mọi người trong nước.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Đồi Dương Xuân ở nam sông Kim Trà (sông Hương) từng có phủ Dương Xuân là mặc định nhưng vì đồi lại lớn rộng, có nhiều phần nhấp nhô theo phương thẳng đứng, uốn éo theo bình đồ nên đồi có nhiều gò, cồn. 

  • TRẦN ANH SƠN

    Huế mà chúng tôi nhắc đến ở đây là xứ Huế ngày xưa, thuở còn là "Đô thành Thuận Hóa” của Chúa Nguyễn.