LÊ VĂN THUYÊN
Đỗ Kỳ Huy là một họa sĩ nhưng anh không chỉ sáng tác nghệ thuật bằng những tác phẩm hội họa mà còn bằng một loại hình nghệ thuật độc đáo khác: Nghệ Thuật Gốm.
Sau khi tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật ở Huế năm 1988, Đỗ Kỳ Huy vào Biên Hòa học gốm thêm một năm. Cuối năm 1989 anh trở lại Huế với ước mơ tạo ra những tác phẩm nghệ thuật bằng chất liệu gốm như anh đã gọi Gốm Mỹ Thuật.
Hoài bão lớn là như vậy nhưng anh hết sức khiêm tốn. Anh hiểu rằng nghề làm đồ gốm ở Thừa Thiên - Huế đã trải qua không ít thăng trầm. Nhiều nghệ nhân gốm tài ba ở Thừa Thiên - Huế cuối đời vẫn sống thanh bạch nghèo khổ mặc dù trọn thời trai trẻ đã cống hiến cả tài năng và của cải cho nghề gốm. Một lão nghệ nhân năm nay đã ngoài 80 tuổi hiện đang ở làng Nguyệt Biều (TP. Huế) - một trong những nghệ nhân hiếm hoi của thế hệ trước còn sống sót - là người như thế. Đỗ Kỳ Huy đã đến thăm và hỏi chuyện nghề nghiệp lão nghệ nhân ấy. Bằng trí nhớ khá minh mẫn, cụ đã kể lại một cách chi tiết, cụ thể những "bí quyết" nghề nghiệp trong suốt thời gian hơn ba năm cụ sản xuất toàn bộ ngói thanh lưu ly và hoàng lưu ly để trùng tu Ngọ Môn vào đầu thập niên 1960. Như một kẻ "tầm sư học đạo", rất chân thành và cầu thị, Đỗ Kỳ Huy đã xin "yết kiến" hầu hết những người đã từng làm gốm ở Thừa Thiên - Huế. Huy đã giới thiệu với tôi một vài khuôn mặt trong số những người đó mà anh rất quý trọng về tài năng, tri thức và hoài bão nghề nghiệp. Họ đều là những người rất tâm huyết với nghề làm đồ gốm, thiết tha muốn phục hồi lại việc sản xuất nghề truyền thống đáng quý ấy nhưng kết quả đã không như ý muốn. Điều ấy chứng tỏ rằng muốn làm sống lại nghề gốm ở Huế không phải dễ dàng và đơn giản, rằng muốn tránh được con đường thất bại của những bậc đàn anh đi trước phải "bó tay gốm, ôm tay cày" để kiếm sống trên đồng ruộng, Huy quyết tâm thể nghiệm một loại hình nghệ thuật gốm mới:
Gốm mỹ thuật. Với tình cảm đam mê nghề nghiệp hiếm thấy, lại được sự bảo bọc, nâng đỡ của thân sinh là họa sĩ Đỗ Kỳ Hoàng và những người thân trong gia đình nên Đỗ Kỳ Huy đã bắt đầu sự nghiệp sáng tác tạo hình đồ gốm khá thuận lợi. Tuy nhiên, chính sự nỗ lực của bản thân anh, đôi khi gần như vượt quá sự cố gắng tối đa của một con người bình thường, đã giúp anh khắc phục được mọi khó khăn. Vóc người nhỏ nhắn, thư sinh, tuổi đời còn quá trẻ (sinh 1964), lại không may bị hỏng một con mắt nhưng Đỗ Kỳ Huy đã lao động nghệ thuật miệt mài, dẻo dai đến lạ thường. Anh đã tự làm tất cả mọi công việc cần thiết để có một tác phẩm gốm mỹ thuật hoàn chỉnh: từ thiết kế kiểu lò nung, xây lò, làm đất, tạo dáng... đến đun lò, xử lý mọi tình huống kỹ thuật và chờ tác phẩm ra lò như người mẹ chờ đứa con ra khỏi bụng mình. Với tinh thần lao động cần mẫn và nghiêm túc như vậy, chỉ sau một thời gian ngắn chưa đầy ba năm vừa học nghề, vừa nghiên cứu - sản xuất thể nghiệm, cuối tháng 12-1990 anh đã tổ chức một phòng triển lãm gốm bề thế tại Huế gồm trên 150 tác phẩm gốm đầu tay đặc sắc của anh. Có lẽ thuật ngữ Gốm Mỹ Thuật đã được nhiều người thừa nhận từ cuộc triển lãm ấy.
Tác phẩm gốm của Đỗ Kỳ Huy thể hiện khá rõ bản lĩnh nghề nghiệp của anh qua phong cách trang trí, nghệ thuật tạo dáng và kỹ thuật xử lý chất liệu, ở bất cứ khâu nào cũng đều có thể nhận ra tính sáng tạo độc đáo của tác giả. Là họa sĩ nên anh có cái nhìn thẩm mỹ khá tinh tế qua cách tạo dáng và sử dụng màu sắc trang trí trên tác phẩm gốm, vì vậy đồ gốm của anh rất đa dạng về tạo hình và hài hòa trong phối sắc trang trí. Anh hết sức coi trọng khâu tạo dáng tác phẩm, tùy theo dáng để xử lý các yếu tố trang trí. Về mặt kỹ thuật chất liệu, Đỗ Kỳ Huy cũng đã tỏ ra rất vững vàng, nhất là trong khâu xử lý kỹ thuật men, ngay trên cùng một tác phẩm gốm, chất men vừa có độ bóng loáng, vừa có chỗ xù xì, xô xám; tạo được hiệu quả như vậy thì phải điều khiển cho được nhiệt độ trong quá trình nung. Chính nhờ làm chủ được nhiệt độ khi nung nên mới có thể tạo chất men theo ý muốn, sản phẩm gốm khi ra lò sẽ có chất men mát (émail mát) hay men trong (émail cristallin) theo ý muốn. Xem tác phẩm gốm của Đỗ Kỳ Huy, ta như gặp lại một chút phong cách gốm Hy Lạp cổ đại, một chút chất thô mộc của gốm đã lu lẫn chất men truyền thống của gốm dân gian. Một thành công đáng kể khác của Đỗ Kỳ Huy là đã tự tìm ra đất để sản xuất gốm. Nhờ kết quả của việc nghiên cứu trên lý thuyết kết hợp với việc khảo sát thực địa ở một số nơi trên địa bàn Thừa Thiên - Huế, sau một vài lần thí nghiệm, Đỗ Kỳ Huy đã kết luận phải dùng đất theo phương pháp phối liệu, nhất là đất làm bao nung phải có độ chịu lửa cao khi đưa vào lò. Nhờ biết chủ động kết hợp một cách khéo léo và thông minh giữa kỹ thuật và mỹ thuật trong quá trình nghiên cứu sản xuất gốm, Đỗ Kỳ Huy đã dần dần tự khẳng định cho mình một hướng đi đầy tự tin.
Đỗ Kỳ Huy đã sống với nghề gốm đến nay vừa tròn ba năm. Khi nói chuyện với tôi, anh tỏ ý tiếc là không có đủ thời gian để học nghề gốm một cách chính qui và toàn diện hơn. Anh rất biết ơn những bậc thầy đáng kính ở vùng gốm truyền thống nổi tiếng Biên Hòa đã truyền thụ cho anh phần tri thức quí giá về nghề, đồng thời anh cũng hết sức ngưỡng mộ các vị danh sư trong lãnh vực gốm ở miền Bắc mà anh đã được tiếp xúc, học hỏi. Anh hay nhắc đến đồ gốm cổ Thanh Hóa với vẻ đầy say mê, thích thú. Rõ ràng sự yêu thích ấy đã để lại những dấu ấn khá đậm nét trên nhiều tác phẩm gốm của anh. Tôi cũng hết sức bất ngờ khi biết anh đã thể nghiệm thành công việc sản xuất "thử cho vui" - như lời anh nói - ngói thanh lưu ly và hoàng lưu ly! Thì ra, ngay trên đất Huế này, vào đầu thập niên 1960 và cuối thập niên 1980 đã có người làm ra được cái thứ "ngói quí tộc" ấy. Còn khoảng thời gian giữa hai thập niên đó, có bao nhiêu nghệ nhân có thể làm được loại ngói "cao cấp" như thế? Bây giờ họ đi đâu, về đâu, làm gì? Mai một hết rồi chăng?
Để sống được với nghề gốm, hay nói cách khác, muốn cho nghề làm đồ gốm ở Thừa Thiên - Huế khỏi sống ngắc ngoải như một số ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống ở Huế hiện nay, Đỗ Kỳ Huy nhấn mạnh: Huy chọn loại hình sáng tác gốm mỹ thuật. Điểm khởi đầu nghệ thuật gốm của Đỗ Kỳ Huy là như vậy - một sự bắt đầu với nhiều triển vọng tốt đẹp đáng yêu.
Huế 12.1991
L.V.T
(TCSH47/01-1992)
NGUYỄN HỮU NGÔKhu nhà máy bên kia sông tràn đầy sức sống giữa một bầu trời êm ả. Những bông cỏ chen nhau vươn lên… và bỗng nhiên một cánh chuồn chuồn đỏ thắm đáp xuống - một chi tiết thật bất ngờ và thú vị. Toàn thể bức tranh tỏa ra ánh dịu dàng của một buổi sáng mùa xuân.
ĐẶNG MẬU TỰUKhi được Hội Mỹ Thuật Việt Nam phân bố cho miền Trung một suất đi thực tế Trường Sa, Họa sĩ Lê Văn Nhường là một điểm trong tầm ngắm để được giới thiệu đi trong chuyến hải hành này. Trường Sa là một trong những mục tiêu mà Hội Mỹ thuật quan tâm trong cuộc vận động sáng tác về biển đảo trong năm 2010 - là điểm nóng vì là tiền tiêu của Tổ quốc. Ai cũng mong có một lần được đi đến đó.
THANH TÙNGVào những ngày cuối tháng 7-2010 Đinh Cường từ Mỹ về và Phan Ngọc Minh từ Đà Nẵng ra tổ chức một cuộc triển lãm tranh ở gallery Chiêu Ê - số 89 Minh Mạng, thành phố Huế - nhà riêng của hoạ sĩ Hoàng Đăng Nhuận.
TRẦN THANH BÌNHCách đây đúng 9 năm, có một họa sĩ xứ Huế đã lang thang gần 2 tháng trời trên những góc phố cổ kính Hà Nội để "chiêm nghiệm", đó là Lê Quý Long.
LÊ QUÝ LONGMùa xuân năm ấy, vào dịp Tết, chợt nhớ đến người bạn đồng nghiệp ở cách thành phố hơn hai kilômét về phía tây dọc theo dòng sông Hương. Anh ở gần chợ Long Thọ, bên trái là con đường đi đến sân Hổ Quyền.
SĨ THIỆNTrại sáng tác điêu khắc Quốc tế lần 2 được tổ chức tại Huế đã kết thúc được 3 tháng. Bằng sự lao động sáng tạo, bất chấp cái "mưa thúi đất thúi trời", 14 nhà điêu khắc Việt Nam là 16 nhà điêu khắc đến từ châu Mỹ, châu Âu, châu Á đã để lại cho Huế 30 bức tượng, một món quà vô giá và vĩnh hằng.
NGÔ MINHTôi quen biết họa sĩ Đặng Mậu Tựu từ những ngày gửi con trai đi học lớp hội họa ở Nhà Thiếu nhi Huế. Những ngày đó thiếu nhi đến học vẽ đông lắm. Có lớp buổi sáng, buổi chiều, lại có lớp ban đêm. Lớp nào cũng có mặt thầy Đặng Mậu Tựu có mái tóc bồng bềnh như sóng Quy Nhơn, mặt mày hốc hác vì thiếu ngủ và thiếu dinh dưỡng, cặm cụi dạy các cháu cách cầm cọ, pha màu, phác thảo tranh. Rồi thầy Tựu dắt các em đi chơi Bạch Mã, Lăng Cô... để tìm cảm hứng vẽ.
LGT: Sau hơn năm tháng bị tai biến, họa sĩ Hoàng Đăng Nhuận đang dần hồi phục trở lại. Ý thức sống là sáng tạo đã thôi thúc người họa sĩ. Và như vậy toile đã căng lại trên khung, màu cũng đã sẵn sàng.A. Camus trong một cơn bệnh đã chiêm nghiệm “Bệnh tật là một dòng tu kín”. Hy vọng rằng trong ngọn lửa sáng tạo nhen lên lần này, tranh Hoàng Đăng Nhuận có thêm nhiều chiêm nghiệm mới trong dòng tu kín của mình.S.H
ĐẶNG MẬU TỰU... Về quê, về quê, ai cũng có ít ra một lần về quê.Về cái nơi chôn nhau cắt rốn ấy, dù giàu nghèo đến đâu thì mảnh đất ấy cũng rất thiêng và rất riêng với mình.
NGUYỄN NGUYÊN ANTừ những thập niên sáu mươi đến tám mươi của thế kỷ trước, trong làng vẽ Huế, họa sĩ Lê Vinh - một cây cọ cinéma nổi lên như hiện tượng. Tưởng rằng, ông chuyên vẽ tranh quảng cáo, pano, nhưng không, ông có 20 bức vẽ còn lưu giữ trong Bệnh viện Trung ương Huế từ năm 1970 và là người vẽ tranh Bác Hồ to lớn nhất Việt Nam trong thời điểm 1975.
HẠNH NHIĐó là tên sê-ri tranh sơn mài của họa sĩ Đinh Khắc Thịnh - người được biết đến nhiều với các tác phẩm mỹ thuật sắp đặt trong các Festival nghề thủ công truyền thống và các Festival Huế.
PHAN THANH BÌNH-KHÁNH TRANGNăm nay triển lãm mỹ thuật Bắc Miền Trung lần thứ VIII được tổ chức tại Thanh Hoá, vùng đất địa đầu của khu vực miền Trung. Triển lãm trưng bày 116 tác phẩm của 46 tác giả là hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam và 51 tác giả hội viên Hội VHNT các địa phương. Hội đồng nghệ thuật đã loại 19 tranh vi phạm quy chế về thời gian sáng tác, kích thước (TT-Huế có 3 tranh) và đặc biệt trong đó có 9 tranh bị loại vì chất lượng nghệ thuật kém.
PHAN THANH BÌNHHình bóng người phụ nữ xứ Huế từ lâu đã được khắc sâu trong nghệ thuật hội họa với bao tác phẩm, dáng hình và tình cảm sâu nặng, với những vẻ đẹp chiều sâu hài hòa, rung cảm, xao động lòng người. Những tác phẩm ấy đã có ý nghĩa lịch sử lớn lao trong việc khẳng định và làm sáng tỏ hơn những giá trị tinh thần, phẩm chất của con người Huế nói chung và của người phụ nữ Huế nói riêng.
Đầu năm 1997, khi mới chuyển về công tác tại Đài Truyền hình Huế, tôi có ý định làm một phim tài liệu nghệ thuật về hoạ sĩ Bửu Chỉ. Sau nhiều lần từ chối, họa sĩ Bửu Chỉ đã đồng ý giúp tôi việc này. Ngày 25-2-97, tôi gửi anh 7 câu hỏi nhằm có thêm tư liệu để lên đề cương kịch bản phim. Hơn 20 ngày sau, anh chuyển cho tôi một thếp giấy vở học trò gồm 13 tờ do tự tay anh viết xong, đề ngày 16-3-1997. Vì nhiều lý do, phim chưa làm được, tôi gửi trả anh các tư liệu đã mượn, riêng bài trả lời phỏng vấn, anh nói tôi hãy giữ làm kỷ niệm về một dự định bất thành.Với tất cả tấm lòng thương quý và kính mến một người Anh, xin được giới thiệu bài trả lời phỏng vấn của Anh mà tôi xem như là những trang di cảo về CUỘC ĐỜI VÀ NGHỆ THUẬT. ĐẠI DƯƠNG
ĐẶNG MẬU TỰUGiới họa sĩ xem Bửu Chỉ là một người đặc biệt không chỉ vì tính khí hoặc bởi từ một người học và tốt nghiệp ngành luật nhưng lại tự học vẽ, có tác phẩm từ lúc học Luật rồi trở thành họa sĩ thực thụ, chết sống với nghề, mà vì tác phẩm của anh có một sắc thái riêng, anh đã tạo cho mình một cõi riêng trong nền nghệ thuật đương đại.
NGUYỄN TRỌNG TẠOMột ngày cuối năm Con Khỉ, tôi ghé vào Gallery Minh Châu số 7 Lý Đạo Thành, Hà Nội, không phải để chiêm ngưỡng tranh của các bậc thầy hội hoạ Nguyễn Phan Chánh, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng... vẫn thường được bày bán ở đây, hay để thăm cô chủ nhỏ Minh Châu quen thân từ trong Huế như mọi lần, mà để xem tranh của mẹ cô vừa mang từ Huế ra trình làng với giới hâm mộ hội hoạ đất Hà Thành.
PV: Ảnh hưởng nào đã cho hoạ sỹ về một thế giới quan có tên gọi là: "Không gian Lê Bá Đảng"? Lê Bá Đảng (L.B.Đ): Không gian của tôi là tạo hoá thiên nhiên hài hoà trong tác phẩm. Không có cô đứng, cô ngồi, cô uỷ lụy, cô say, cô tỉnh, cô chiêm bao; không nhìn thẳng như mọi người mà nhìn từ nhiều góc độ.
PHÚC VINHSau một thời gian dài lang bạt giang hồ, tết này, họa sĩ Hoàng Đăng Nhuận quyết định trở về Galery Chiêu Ê, nơi ông đã gắn bó một thời trai trẻ, trú mình trong căn họa thất xinh xắn vừa xây dựng.
TRẦN KIÊM ĐOÀNLàm nghệ thuật ở xứ nghèo là một “thiện nghiệp gian nan”! Thiện nghiệp vì làm cho đời vui. Gian nan vì phải sống đời áo cơm vất vả.
TRẦN HẠ THÁP Với gần bốn mươi bức tranh trong cuộc triển lãm ở số 4 Hoàng Hoa Thám - Huế khai mạc vào 11 tháng 10 năm 2008, Võ Xuân Huy đã đặt người thưởng ngoạn trước một công trình tổng hợp từ 3 phạm trù sơn mài độc đáo. Sự nối kết truyền thống vào hiện đại này mang tầm vóc đặt để một nguyên lý, xứng đáng để giới bình luận lưu tâm và ghi nhận lâu dài.