PHAN ĐÌNH DŨNG
Nhà văn Trần Trung Sáng, người Hội An, Quảng Nam, là một nghệ sĩ tài hoa. Anh vừa là nhà báo, nhà văn, tác giả của nhiều tập truyện, truyện kí, truyện vừa, tiểu thuyết, vừa là một họa sĩ đã từng được Hội Nhà báo thành phố Đà Nẵng tổ chức triển lãm trang dán giấy vào năm 1999… Có điều ngòi bút Trần Trung Sáng quả thật có nhiều duyên nợ với truyện ngắn, một thể loại văn học mà anh đã gặp gỡ, hò hẹn từ năm 17 tuổi rồi chung thủy gắn bó với nó từ bấy đến giờ.(1)
Ảnh: internet
Tập truyện ngắn Những cuộc hẹn bên lề(*) (NCHBL) ra mắt bạn bè, văn hữu tháng 10 năm 2017 tại thành phố biển Nha Trang xinh đẹp, gồm 17 truyện ngắn chọn lọc từ những trang văn đầu tay đến những truyện gần đây của anh, theo như Lời tựa của nhà văn Võ Chân Cửu, có thể xem như là tuyển tập truyện ngắn kết đọng tinh hoa/tinh huyết truyện ngắn Trần Trung Sáng. Từ tuyển truyện này, những người đồng điệu cùng anh có thể cảm nhận “tấm lòng nhân hậu, luôn mơ ước tới cuộc sống tốt đẹp của Trần Trung Sáng” (Võ Chân Cửu), thú vị với cách xây dựng các nhân vật nữ “quá trong sáng, quá đẹp” của tác giả tập truyện (Phan Trang Hy), “gặp gỡ những miền đất với những bản sắc văn hóa độc đáo, những mảnh đời, những số phận đầy uẩn khúc bị lãng quên…” (Gérard Chappuis, nhà nghiên cứu văn hóa người Pháp gốc Việt)…
Riêng tôi, tôi lại tâm đắc với giọng điệu truyện ngắn nhà văn Trần Trung Sáng bởi nghĩ rằng có lẽ đây chính là một trong những điểm đặc sắc của cây bút truyện ngắn phố Hội, đất Quảng này chăng?
Giọng điệu, có khi còn được gọi là giọng văn (thơ), vốn là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học “phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc” (2). Đi vào truyện ngắn hiện đại, giọng điệu sẽ chi phối một số yếu tố nghệ thuật đặc thù như cấu trúc, hình tượng, ngôn từ… của tác phẩm.
Trong số 17 truyện ngắn của tập truyện NCHBL dễ nhận thấy phần lớn chúng thuộc kiểu truyện ngắn trữ tình. Đa phần câu chuyện được kể lại/trần thuật từ điểm nhìn chủ quan, điểm nhìn của một (hay nhiều) nhân vật xưng tôi: Con mèo ngái ngủ, Người tí hon trong gian nhà bạt, Ga nhỏ, Chiếc nhẫn cưới, Những cuộc hẹn bên lề, Trái tim con rồng đá, Mát-xa, Những que diêm, Họp lớp, Cuộc đua, Bức tranh thiếu nữ, Chuyện Ngọ xưa, Bức ký họa trên sông Mê Kông. Mà những nhân vật xưng tôi này đa số lại thuộc về một thế giới những con người trẻ trung, lãng mạn, giàu cảm xúc. Họ có thể là những nghệ sĩ hoặc có công việc, nghề nghiệp gắn bó ít nhiều với nghệ thuật: Con mèo ngái ngủ, Những cuộc hẹn bên lề, Trái tim con rồng đá, Bức tranh thiếu nữ, Chuyện Ngọ xưa. Họ có khi là người chồng trẻ lãng mạn, dễ xao lòng (Nhẫn cưới); là người làm nghề xây dựng ưa quan tâm, đồng cảm với những số phận thua thiệt, khiếm khuyết (Mát-xa); là anh bộ đội tinh tế, nhạy cảm với những mảnh đời bất hạnh (Những que diêm, Bức ký họa trên sông Mê Kông); là những con người thường xuyên hoài niệm về những tháng ngày đẹp đẽ, lãng mạn, giàu cảm xúc của tuổi học trò (Họp lớp, Cuộc đua); là những đứa trẻ giàu tưởng tưởng và xúc động, khát khao tình bạn (Người tí hon trong gian nhà bạt, Ga nhỏ)… Do vậy, giọng điệu của các nhân vật kể chuyện ấy chủ yếu là giọng trữ tình - lãng mạn; thế giới họ kể ít khi là thế giới hiện thực trần trụi, lạnh lùng mà thường là thế giới nội cảm, thế giới hiện lên qua tâm trạng, qua hệ thống những cảm giác/cảm xúc với các phức hợp khác nhau của chúng. Điều này, không chỉ tạo nên cái nhìn tinh tế và nhân văn của tác phẩm mà còn chứa đựng một dạng chất thơ của truyện ngắn Trần Trung Sáng. Chất thơ bàng bạc từ những suy cảm lãng mạn xoay quanh những chi tiết miêu tả/biểu hiện con người và thiên nhiên:
- …Nhưng với tôi, đáng nhớ hơn cả, đó là những cô thiếu nữ Hà Nội. Trời ạ, cứ 10 cô thì có đến 9 cô rưỡi đẹp mê hồn. Nói mê hồn chắc chưa chuẩn xác, phải nói rằng đẹp và sâu lắng tựa bước ra từ những trang sách Tự lực văn đoàn! (Con mèo ngái ngủ).
- Tôi muốn gào lên, than khóc với đất trời: Tại sao thế giới rộng lớn bao la là vậy, Thượng đế lại chỉ có một người con gái duy nhất dành cho chúng tôi? (Họp lớp).
- Mùa xuân. Dọc hai lối đi trên sân vườn nhà Bạch Dương, lặng lờ từng đàn bướm muôn màu sắc. Những cánh bướm bao giờ cũng làm lòng người xao xuyến nhớ đến một thời yêu đương hò hẹn. (Trái tim con rồng đá).
Chất thơ trong truyện ngắn Trần Trung Sáng còn ẩn hiện trên những dòng thơ người trần thuật liên tưởng, hồi ức rồi đưa vào ngôn ngữ trần thuật của mình để vừa tạo ra một bầu không khí trữ tình - lãng mạn cho câu chuyện, vừa gắn kết với tâm trạng, cảm xúc của người kể chuyện. (Con mèo ngái ngủ, Họp lớp, Chuyện Ngọ xưa…).
Đầu óc, trái tim của những nhân vật trữ tình trong truyện ngắn Trần Trung Sáng đâu chỉ thấm đẫm cảm xúc thơ ca mà còn khắc sâu, in đậm khá nhiều bóng dáng những người đẹp một thời từng đi qua cuộc đời mình. Những bóng hình xinh đẹp ấy chủ yếu được trình hiện thông qua cái nhìn bên trong, cái nhìn tâm trạng của người kể chuyện, do vậy, ngoại hình của họ thường chỉ được chấm phá vài nét dung dị, chủ quan:
- … cô gái đang ngồi trước mặt chúng tôi, với mái tóc xõa ngang lưng, gương mặt trái xoan, đôi mắt tròn xoe vời vợi… (Con mèo ngái ngủ).
- … dáng người gầy guộc, mái tóc cắt ngắn, nụ cười héo hắt, chốc chốc tạo thành những nếp nhăn buồn bã; nếu không vì đôi mắt tròn xoe, đen láy, mơ màng còn lại, chắc khó lòng tôi biết được đó là Bạch Dương thuở xưa. (Trái tim con rồng đá).
- Vẫn cái dáng mảnh khảnh như một con chim sâu nhảy nhót chuyền cành. Vẫn khuôn mặt trái xoan, nụ cười nhè nhẹ mà mỗi lần nhìn thấy hồn tôi bay bổng cả chín tầng mây. (Họp lớp).
- Những múi tóc xõa tung. Những cánh tay trần. Những vồng ngực khỏe khoắn. Những đường cong hoang dã… Tất cả nét đẹp diệu kì của tạo hóa thấp thoáng phơi bày sau những làn vải mong manh, ít ỏi, phập phồng trong làn nước. (Thị trấn bên kia suối).
Người kể chuyện dường như coi trọng hơn việc lột tả tính cách “dịu dàng, nhân hậu” (từ dùng của nhà phê bình Phan Trang Hy), số phận nghiệt ngã và nghị lực mạnh mẽ vượt lên số phận của họ so với miêu tả dáng dấp, ngoại hình. Giọng điệu chủ yếu của nhân vật người kể chuyện ở đây là giọng cảm thông, tin yêu. Bởi vậy, ở kết thúc của khá nhiều truyện ngắn trong tập NCHBL, người đọc hay bắt gặp nhân vật xưng tôi gửi gắm những ước mơ, hi vọng tốt đẹp của mình hướng về hình tượng nhân vật nữ trong truyện (Ga nhỏ, Chiếc nhẫn cưới, Mát- xa, Những que diêm, Bức tranh thiếu nữ…).
Giọng điệu trữ tình - lãng mạn còn chi phối cách kể, cách dàn dựng quan hệ giữa các nhân vật ở một số truyện ngắn của tập có sự đan xen, đắp đổi giữa điểm nhìn khách quan của người kể chuyện và điểm nhìn nhân vật. Đọc truyện ngắn có tên dùng làm tên chung của cả tuyển tập, người đọc có cảm giác hình như người kể chuyện cố tình dùng một giọng kể khách quan, tỉnh táo thể hiện qua lối gọi nhân vật “gã” và “chị”, qua những câu thoại có vẻ như “vu vơ”, “bâng quơ” giữa nhà báo và đối tượng ghi chép… “Nhưng tình cờ, câu chuyện càng lúc càng xoáy sâu vào nỗi niềm của chị”; sự đồng cảm đã rút ngắn khoảng cách giữa hai người; hai bàn tay rụt rè siết nhẹ thăm dò ban đầu dần dà chuyển sang nhanh chóng siết chặt ấm áp, thiết tha! Truyện ngắn đầu tay Con nai nhỏ trên đoạn đường gian nan chỉ duy trì giọng kể, cái nhìn khách quan độ non trang sách dần dần hết sức tự nhiên kể theo điểm nhìn nhân vật thanh niên, một chàng trai trẻ trung, bồng bột với nhiều mơ ước lãng mạn xa xôi. Trong truyện ngắn Thị trấn bên kia suối, không khí và âm hưởng trữ tình lãng mạn xoay quanh đôi tình nhân Trinh và Trứ đã phần nào xoa dịu, chiến thắng âm hưởng và không khí nghiệt ngã, chết chóc của hiện thực đãi vàng khiến cho câu chuyện mang giọng điệu đa thanh, phức hợp, chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa hiện thực và nhân văn.
Tính chất đa thanh, phức điệu khiến cho một số truyện ngắn của NCHBL càng đọc càng thấy duyên dáng, thú vị. Bạn thử nhẩn nha đọc lại truyện ngắn mở đầu tập Con mèo ngái ngủ mà xem. Có phải sự hòa trộn nhuần nhuyễn giữa giọng điệu trữ tình - lãng mạn và giọng điệu hài hước, hóm hỉnh trong ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật đã góp phần tạo nên sự quyến rũ, hấp dẫn? Truyện ngắn Con nai nhỏ trên đoạn đường gian nan xen kẽ, hài hòa giữa giọng điệu sôi nổi, bồng bột và giọng tự vấn, hồi cố của chàng trai trẻ cùng với giọng điệu kể chuyện khách quan, dồn nén, nhờ vậy, số phận bi thảm và những khát vọng của con người về tình yêu và hạnh phúc một thời chiến tranh trở nên xúc động, khắc khoải. Chuyện Ngọ xưa thực sự là một hợp âm về mặt giọng điệu. Có giọng kể khách quan của nhân vật xưng tôi đầu truyện. Có giọng kể chủ quan đa thanh, phức điệu của nhân vật xưng tôi Hoàng Ngọ suốt truyện. Đa thanh, phức điệu bởi bao gồm khá nhiều sắc thái, khuynh hướng cảm xúc: xúc động và tri ân, tự tin và tự hào, khẳng định và phê phán, tin yêu và thất vọng… của một số phận phụ nữ “trải qua những hoàn cảnh đặc biệt” từ những năm sáu mươi của thế kỉ XX đến tận thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI đối với vô vàn những mối quan hệ chồng chéo, phức tạp từ gia đình đến xã hội. Câu chuyện gợi mở những suy cảm tinh tế, sâu sắc về những đức tính và phẩm cách của người phụ nữ Việt Nam truyền thống và hiện đại, về bản chất của nghề y, về mối quan hệ giữa đức tin và niềm tin vào cuộc sống, về mối quan hệ gắn bó sâu xa giữa cá nhân và cộng đồng…
Giọng điệu trong tác phẩm văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng không chỉ biểu hiện cái nhìn, phong cách của nhà văn mà còn bộc lộ nội lực, triển vọng của một cây bút văn xuôi. Nhà văn Trần Trung Sáng năm nay mới ngoài sáu mươi, cái tuổi từng trải và đang độ chín muồi của một ngòi bút văn học, do vậy, chúng ta có quyền, có sơ sở hy vọng anh sẽ tiếp tục hành trình sáng tạo của mình, tiếp tục thai nghén, sinh hạ những đứa con tinh thần bụ bẫm, xinh đẹp!
P.Đ.D
(SHSDB31/12-2018)
........................................
(*) Những cuộc hẹn bên lề, Nxb. Hội Nhà văn, 2017.
(1) Từ sau truyện ngắn đầu tay Con nai nhỏ trên đoạn đường gian nan in trên tạp chí Bách Khoa vào năm 17 tuổi với bút danh Tần Hoa đến nay nhà văn Trần Trung Sáng đã ra mắt bạn đọc 5 tập truyện ngắn: Ngày chủ nhật tuyệt vời (1988), Cổ tích họa sĩ gù và con chim xanh (1989), Ông hoàng đu đủ (1994), Đêm trắng phập phù (2009) và Những cuộc hẹn bên lề (2017).
(2) Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - Từ điển thuật ngữ văn học - Nxb. Giáo dục, 1993, tr. 91.
VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.
HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).
THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.
NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...
TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.