E. RUXACỐP (Nga)
Minh họa: Phạm Đại
- Thôi, không nhắc đến chuyện này nữa, - Khuđônôgôp cau có nhìn vợ, tuyên bố với giọng nghiêm khắc. - Nói thế đủ rồi. Vấn đề coi như đã xong. Phải, anh rất tiếc về chuyện đã xẩy ra. Anh có lỗi. Nhưng thôi, đủ rồi, không phải nói nhiều nữa, em rõ chưa?
- Rõ, - chị vợ gật đầu. - Em hoàn toàn đồng ý với anh.
- Thế là tót. Coi như chúng ta đã thỏa thuận với nhau: không nói một lời nào về chuyện này nữa!
- Được, được. Không một lời nào nữa.
- Vì dù sao chúng ta đều là những người có học cả - sau một phút im lặng người chồng nói - Không nên vì chuyện không đâu mà làm ầm ĩ lên... đúng không?
- Đúng, hoàn toàn đúng, - người vợ gật đầu - Chính em là người có lỗi - giá lúc ấy em đừng đi vào buồng... Giá em không vào... thì đã không có chuyện gì...
- Đấy, em lại nhắc đến chuyện ấy rồi!
- Không, chẳng qua em chỉ muốn nói rằng, giá như em không biết gì, giá như em không nhìn thấy gì... thì mọi việc đã êm thấm.
- Tất nhiên rồi. Nhưng dù sao cũng đã xảy ra chuyện gì đâu. Hơn nữa, em phải biết rằng... lúc đó anh đang trong trạng thái... say rượu.
- Em biết, - người vợ nói.
- Đấy! Thế thì có chuyện gì mà ầm ĩ nào? Có gì nghiêm trọng xảy ra đâu?
- Phải, không có gì cả.
- Em làm sao thế nhỉ?
- Làm sao là làm sao?
- Sao em cứ xị ra thế?
- Xin lỗi, - người vợ cười gượng. Em xin lỗi anh. Em sẽ không buồn nữa.
- Em đúng là dở hơi dở hồn! - Khuđônôgôp ôm lấy vợ và hôn vào thái dương cô một cái. - Thôi, em đừng buồn nữa. Vì em có nhìn thấy chuyện gì khủng khiếp đâu...
- Thôi, anh đừng nói nữa, - người vợ ngắt lời.
- Anh và cô ta... chỉ hôn nhau có một cái thôi...
- Thôi, em xin anh đừng nói nữa! Chính anh vừa đề nghị là không nhắc đến chuyện này nữa cơ mà!
- Tất nhiên rồi, với lại, thực ra cũng chẳng có chuyện gì phải nói cả.
Người vợ thở dài đánh sượt.
- Sao em cứ thở dài thế? - Khuđônôgôp bực mình gắt lên, - Em cứ làm cái bộ mặt sầu não như thế để làm gì?
- Xin lỗi, em không thế nữa.
- Thôi nhé, chấm hết! Không nhắc đến chuyện này nữa, - sau khi im lặng một chút anh chồng lại lên tiếng - Không một lời nào nữa! Chuyện không có gì cứ nhắc đi nhắc lại hoài... bực cả mình.
- Thôi được, thôi được.
- Giá bảo như xảy ra chuyện gì nghiêm trọng cơ. Như anh phản bội em chẳng hạn... lại là chuyện khác, - Khuđônôgôp bắt đầu lý luận. - Đằng này hoàn toàn chưa có chuyện gì cả.
Chị vợ im lặng.
- Sao em im lặng thế? - Khuđônôgôp lại bắt đầu thấy bực.
Thì chúng ta vừa thỏa thuận... không nói gì về chuyện này nữa cơ mà!
- T-u-y-ệ-t! - Anh chồng mặt hằm hằm đi đi lại lại trong phòng. - "Chúng ta đã thỏa thuận"! Theo em, như thế là chúng ta sẽ hoàn toàn không nói gì với nhau nữa à? Không nói đến chuyện ấy nữa, có nghĩa là không còn chuyện gì khác để nói hay sao? Khô-ô-ông. Chúng ta sẽ nói chuyện khác.
- Ừ, thì nói chuyện khác - chị vợ uể oải gật đầu.
Họ không bật đèn, nên trong buồng mỗi lúc một tối. Qua cánh cửa mở hé ngoài ban công, những âm thanh ngoài phố lọt vào trong buồng: tiếng chó sủa xa xa, tiếng người cười, tiếng gió thổi, tiếng cành lá xào xạc, tiếng một chiếc xe máy rú qua.
Người vợ vẫn ngồi thu lu hai chân co sát vào nhau trong góc đi văng. Dáng người bé nhỏ, mắt to, mặc chiếc váy giản dị màu vàng, trong bóng tối trông chị ta giống như một cô bé con ốm yếu, sợ sệt.
Khuđônôgôp - người cao to, vai rộng, tóc dày, có khuôn mặt và dáng dấp của một thủ trưởng lớn - vẫn đi đi lại lại trong căn phòng.
- Hôm nay ở cơ quan anh lại gặp chuyện khó chịu, - anh cố gắng lái câu chuyện sang hướng khác.
- Chuyện gì?
- Bên giao hàng chúng nó lừa anh... Quỷ tha ma bắt chúng đi. Anh đang lo quý này chưa đưa phân xưởng hai vào hoạt động được. Đúng là bọn đểu! Có khi anh phải đích thân lên Cục... hay thậm chí lên thẳng Bộ.
- Việc gì phải lên ngay Bộ? - chị vợ tỏ vẻ ngạc nhiên một cách hờ hững.
- Không thế thì không thể nào bắt chúng nó nhúc nhích được.
Chị vợ lại im lặng.
- Sao em không nói gì cả? - Khuđônôgôp vừa hỏi vừa cố quan sát nét mặt của chị trong bóng tối.
- Em đang nghe anh đây.
- "Đang nghe!"? Đ-a-ng ngh-e!... Trong khi lẽ ra có thể nói một câu gì đó, - anh chồng tức khí. - Cô còn định kéo dài cái trò này bao lâu nữa hả? Vì tôi thấy rõ là cô vẫn chỉ nghĩ đến cái chuyện ấy...
- Em không thế nữa, - chị vợ nói. - em sẽ cố không nghĩ đến chuyện ấy nữa.
- Với lại chẳng có vấn đề gì phải nghĩ ngợi cả.
- Tất nhiên, anh nói đúng, - chị vợ tán thành. - Em sẽ không nghĩ nữa.
- Không, anh nói nghiêm túc đấy: không một lời nào về chuyện nấy nữa nhé, em rõ chưa?
- Rõ... - chị vợ lí nhí đáp.
Khuđônôgôp dừng lại. Anh đang đứng giữa phòng, như viên thuyền trưởng đứng dạng chân trên boong tàu, hai tay đút túi quần. Anh nhìn vợ - và dường như không nhìn thấy chị. Chị ở chỗ nào?... Chị đang cười hay đang khóc? Trong góc đi văng chỉ thấy lờ mờ khuôn mặt của chị và đôi mắt to sẫm.
Bỗng nhiên anh cảm thấy vừa thương chị vừa giận chị. Anh muốn giúp đỡ người phụ nữ mảnh mai yếu đuối mà ngày xưa anh đã từng yêu và bây giờ, trong giây phút buồn tẻ này, anh bỗng nhớ lại những ngày xa xưa và những tình cảm ban đầu - tự dưng anh muốn ra an ủi chị ngay lập tức, vuốt ve, âu yếm chị, nói chuyện bông đùa làm cho chị vui.
- Ôi, em đáng thương của anh, - anh đến gần chị và ngồi xuống bên cạnh. - Em đang suy tư gì thế, em bé bỏng của anh? Em nghĩ gì mà nghĩ hoài vậy?... Chao ôi, giá anh chia sẻ được những lo toan của em...
- Anh đừng giận em, - mủi lòng trước cử chỉ dịu dàng âu yếm của anh, chị nói giọng như khóc, - Em đã cố không nghĩ đến chuyện ấy... nhưng không được, em đã hết sức cố... nhưng không ăn thua gì. Anh đừng trách em.
- Sao em lại nói thế, em bé bỏng của anh. - Anh vuốt nhẹ đầu chị như vuốt ve đứa bé. - Em hãy bình tĩnh, đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa
- Em đã cố không nghĩ rồi... nhưng không được... không được! Em càng tự nhủ mình không được nghĩ đến chuyện ấy bao nhiêu, thì lại càng nghĩ về nó bấy nhiêu...
Rồi chị sụt sịt khóc. Khuđônôgôp không nhìn thấy nước mắt của chị, nhưng những giọt nước nóng bỏng cứ chảy thành dòng xuống bàn tay anh.
- Anh hiểu, - anh ôm chặt chị vào mình, dùng mu bàn tay lau nước mắt cho chị. - Không muốn nghĩ... nhưng vẫn cứ nghĩ đến... anh hiểu... Em có biết không, nó cũng giống như trò chơi của trẻ con ấy: thi trong vòng mười phút không nghĩ đến con gấu trắng...
- Nghĩa là thế nào? - Chị vợ chưa hiểu.
- Đấy nhé, em thử đi - tôi không nghĩ đến gấu trắng. Em cứ thử không nghĩ đến gấu trắng xem. Em sẽ không thể làm được và lúc nào trong đầu em cũng chỉ nghĩ đến nó thôi. Nào... em cứ thử xem nào!
Họ im lặng khoảng nửa phút.
- Chịu... Em không sao nghĩ được con gấu trắng nào như thế cả, - chị vợ nói và thút thít khóc. - Em toàn nghĩ đến chuyện khác.
Khuđônôgôp phì cười, kéo sát chị vào người mình, ôm chặt đôi vai mảnh khảnh của chị - và hai người cứ ngồi im lặng như thế vài phút.
Trong phòng đã tối hẳn.
Cả hai đều không muốn nói gì nữa.
Lòng thương hại vợ vừa thoáng qua trong anh đã nhanh chóng tan biến... nhưng Khuđônôgôp chưa muốn đứng lên vội. Anh muốn dỗ dành cho vợ nguôi hẳn, nên anh tiếp tục ngồi bên chị, ôm chặt chị và dịu dàng vuốt ve chị.
Anh cố nghĩ về chị, về người vợ đáng thương, anh cố nghĩ đến chuyện chị bị cô đơn quá, nhưng anh không tài nào nghĩ như thế được, và không hiểu sao anh cứ toàn nghĩ đến con gấu trắng.
Còn vợ anh, lặng lẽ, và nhút nhát, và gần như đã nguôi ngoai, thì cố gắng nghĩ về con gấu trắng, nhưng tiếc thay, chị cũng không sao làm được chuyện đó.
Thái Hà dịch
(TCSH50/07&8-1992)
LTS: Anatoli Kudraves là một nhà văn Beloruxia tài năng. Phần lớn các tác phẩm của ông thể hiện cuộc sống của những người nông dân, người chủ chân chính, giàu bản sắc riêng và chân thành của chính quê hương mình. Tác giả đã dẫn dắt nhân vật của mình trải qua công việc tập thể hóa nông nghiệp, trải qua những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và cả thời kỳ kinh tế đổ nát sau chiến tranh cho đến ngày hôm nay.
BỒ TÙNG LINHLang Mỗ quê ở Bành Thành, con nhà học thức. Ngày nhỏ đã được nghe cha nói đến các sách quý và các sách khác trong nước, lại thường được nghe cha luận bàn với các bạn bè của ông về các loại sách và các nhà thơ cổ đại.
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?