Nói là nghề “kỳ dị” bởi lẽ đây là nghề “có một không hai” ở xứ Huế, đó là nghề làm mõ mà mọi người thường thấy ở các đình chùa. Việc làm ra một chiếc mõ đòi hỏi rất công phu và tỷ mỷ, ngoài việc tạo hình thì việc tạo ra âm thanh cho chiếc mõ cũng là một vấn đề nan giải. Cũng bởi vì tính chất phức tạp đó nên mọi người hay gọi đây là một nghề “kỳ dị”, vì không phải ai cũng có đủ kiên nhẫn và có cái tâm để theo đuổi nghề…
Nghệ nhân” Lê Thanh Liêm
Đến với nghề “kỳ dị” nhờ sự tình cờ
Phường Thủy Xuân (TP Huế), được biết đến là nơi nổi tiếng sản xuất ra những chiếc mõ độc đáo luôn được các nhà chùa ưa chuộng. Ở trong phường có một nghệ nhân đến với nghề mõ một cách tình cờ, nhưng cũng chính nhờ sự tình cờ ấy mà giờ đây anh đã là người nổi tiếng bậc nhất và được phong danh hiệu “nghệ nhân làm mõ”. Đó là anh Lê Thanh Liêm (45 tuổi), trú tại Tổ 2, phường Thủy Xuân, TP Huế (Thừa Thiên – Huế). Tiếp phóng viên khi đang “tay đục, tay cưa”, anh Liêm vội khẽ giơ cánh tay lau những vạt mồ hôi và kể về cơ duyên gắn bó với nghề “kỳ dị” này.
Anh Liêm tâm sự, gia đình anh có truyền thống theo nghề mộc, làm những sản phẩm như bàn ghế, chạm trổ…, chứ chưa có một ai theo nghề làm mõ này cả. Trước đó, bố của anh cũng đã từng định làm nghề mõ nhưng cũng vì “khó” quá nên bố anh đã phải giang giở giấc mơ. Khi lớn lên anh Liêm cũng nối nghiệp làm mộc theo bố để mưu sinh và việc đến với nghề làm mõ “kỳ dị” này chính là một cơ duyên.
Làm nghề mộc từ năm 17 tuổi, ban đầu anh Liêm học mộc, sau rồi anh học chạm, rồi sau đó khắc tượng…, nên việc chuyển qua làm mõ với anh cũng không khó vì cũng đã bao nhiêu năm gắn bó với gỗ, với đục, với cưa. Vấn đề quan trọng nhất đối với những chiếc mõ là ngoài hình thức thì nó còn có nội dung bên trong, đó là âm thanh của mõ. Việc một chiếc mõ hình thức đẹp nhưng mà âm thanh rỗng, tiếng không thanh thoát, âm không tĩnh thì đó cũng chỉ là chiếc mõ “vứt đi”, vấn đề là phải có cái tâm, có sự kiên nhẫn vì sản xuất ra một chiếc mỏ là một quá trình lâu dài chứ không phải là ngày một ngày hai – Anh Liêm nhấn mạnh.
Anh Liêm khẽ cười: “Chắc là nghề chọn người các chú à, vì tui có ý định làm đâu”. Nhấp ngụm trà nóng, anh Liêm kể rằng vào thời điểm năm 2009 tình cờ anh gặp được kỹ nghệ gia Hoàng Trọng Trọng và “vô tình” anh Liêm đã lọt vào “mắt xanh” của kỹ nghệ gia này. Thấy anh Liêm cũng có năng khiếu về nghệ thuật, có khả năng cảm âm, chạm gỗ…, nên ông Trọng đã gợi ý và truyền cho anh Liêm một số kinh nghiệm để sản xuất ra những chiếc mõ phục vụ cho dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Vốn trong mình luôn mang ý tưởng là giữ lại “chút hương xưa” của cha ông và muốn “vá lại” những mơ ước giở dang mà người bố của anh chưa thực hiện được, sẵn dịp có người “gợi ý” giúp đỡ như “cá gặp nước” chỉ trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi và ít ỏi ấy anh Liêm đã tiếp thu được những “bí quyết” mà nghệ nhân truyền lại. Và sau đó, những chiếc mỏ được anh cho ra lò.
Nghề “kỳ dị”, nghệ nhân cũng “dị thường”
Nói là “dị thường” không phải là “mỉa mai” khả năng của anh Liêm, mà đó là sự tài năng và đặc biệt mà không phải “nghệ nhân” nào cũng có. Sự “dị thường” ấy chính là những tố chất sẵn có trong con người anh, đó là khả năng chọn gỗ, cảm âm và những ý tưởng độc đáo ấy… Chính anh Liêm thành công, danh tiếng vang xa như ngày hôm nay âu cũng bắt nguồn từ sự “dị thường” ấy, và sự kết hợp giữa nghề “kỳ dị” và người nghệ nhân “dị thường” đã cho ra những chiếc mõ “độc nhất vô nhị?”..
Nghề làm mõ phục vụ cho các đình chùa có một đặc thù rất riêng là phải làm từ gỗ mít, bởi vì gỗ mít mềm, dễ đục và những âm thanh phát ra từ gỗ mít rất trong và êm, còn các loại gỗ khác như gỗ trắc, triền thì lâu ngày nó nứt và mất đi âm thanh. Theo kinh nghiệm của anh Liêm thì anh thường tính vòng trên thân cây để chọn gỗ, đồng thời dựa vào kinh nghiệm dân gian cứ một vòng trên thân cây tương ứng với một năm và những gốc mít mà anh chọn để làm mõ thông thường có tuổi đời từ 300-400 năm. Với con mắt “tinh đời” của mình, khi nhìn vào thân gỗ anh đã thấy được thân gỗ ấy mang lại âm thanh như thế nào, trong hay là trầm, cũng từ thân gỗ ấy trong đầu anh đã mường tượng ra được chiếc mỏ mà anh định sản xuất sẽ theo bố cục như thế nào.
Xưởng làm mõ của anh Liêm gồm có 6 nhân công và mỗi người làm một công đoạn, khi mua một thân gỗ về thì mỗi người một mảng, đầu tiên là sẻ gỗ, ra phôi, rồi đến khâu hình thành phôi và sau đó là đục rỗng gỗ rồi đưa vào lò sấy, tiếp tục là việc mài láng và chạm trỗ, khâu cuối cùng là lấy tiếng. Những nhân công trong xưởng làm mõ của anh Liêm thường được anh phân công làm những công việc phù hợp với khả năng của mỗi người. Hiện tại giờ anh Liêm chỉ làm một khâu quan trọng nhất là lấy tiếng, vì tiếng chính là phần quan trọng nhất và cũng chính là “hồn” của chiếc mõ.
Sự “kỳ dị” trong chiếc mõ cũng bắt nguồn từ khâu lấy tiếng, anh Liêm tâm sự rằng có khi cả tuần cũng không lấy được tiếng. Để lấy tiếng của một chiếc mõ thì trước hết phải có kinh nghiệm từ lâu năm, mới vào nghề không bao giờ lấy tiếng được. Nói đến đây anh cười bảo rằng nó “kì quái” lắm, vì khi lấy tiếng phải ngồi chính diện với mõ, mọi thứ dường như “nội bất xuất, ngoại bất nhập” không để bất kỳ thứ gì có thể ảnh hưởng để làm “lạc” đi cái tiếng mà mình đang cảm nhận. Có những hôm anh phải thức suốt đêm mới lấy được âm thanh cho chiếc mõ: “Khó mà dễ, dễ mà khó các chú ạ, nghề này đặc biệt vậy đó” – anh Liêm nói với giọng cười đùa.
Với một chiếc mõ thì có nhiều kích cỡ khác nhau, cái nhỏ nhất có đường kính là 20cm, cái lớn nhất là 80cm, đối với những chiếc mõ có đường kính 80cm thì thời gian hoàn thiện ra được nó cũng ít nhất mất đi 4 tháng ròng rã. Cũng chính bởi sự kì công ấy, những chiếc mõ tại xưởng của anh Liêm xuất ra thị trường cũng có giá thành rất “đặc biệt”, chiếc nhỏ nhất có giá là 80.000 đồng/chiếc, lớn nhất với giá 150.000.000 đồng/ chiếc. Đắt thì xắt cũng ra miếng, mõ ở xưởng anh Liêm được mọi người ưa chuộng và từng được xuất ngoại qua rất nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia theo đạo phật như Ấn Độ, Trung Quốc, Lào…
Danh tiếng của anh Liêm vốn được các sư thầy biết tới và hầu như nhà chùa nào ở TP Huế cũng dùng sản phẩm mõ của xưởng anh Liêm. Đại đức Thích Nhật Trí đang tu ở chùa Thiền Tôn, phường An Tây, TP Huế (Thừa Thiên – Huế) nói rằng, anh Lê Thanh Liêm là một thợ làm mõ “dị thường” và có uy tín rất cao, tài năng có một không hai “nhất nhì” ở xứ này. Hàng ở đây luôn đạt tiêu chuẩn “song long chầu”, tức là một chiếc mõ hội tụ hoa văn của cá và rồng, tiếng mõ rất thanh thoát. Tôi đã đi nhiều nơi, nhưng tiếng mõ ở những nơi đó không trong veo, khi cất lên nghe chua chát lắm, còn tiếng mõ ở đây trong veo, thanh thoát, đạt đến mức “duyệt chúng”.
Nhờ “tâm sáng, lòng trong” của bản thân mà anh Liêm đã gặt hái được rất nhiều thành công trong nghề. Trong dịp đại lễ ngàn năm Thăng Long – Hà Nội sản phẩm mõ của cơ sở anh Liêm đã vinh dự được góp mặt. Nối tiếp thành công ấy, hầu như trong tất cả các dịp triển lãm sản phẩm làm nghề của tỉnh Thừa Thiên – Huế, những sản phẩm mõ của cơ sở anh Liêm luôn đạt vị thế độc tôn và được mọi người thích thú.
Để thành công phải xuất phát từ “tâm”
Cũng theo anh Liêm cho biết thêm, để trụ vững với nghề này phải xuất phát từ cái tâm của chính mình. Vì những chiếc mõ là sản phẩm làm cho chùa chiền, làm phải theo đạo đức, tâm phải trong sáng, không vụ lợi thì khi ấy mới thành công được. Cũng xuất phát từ điều ấy mà đã bao năm qua anh luôn đào tạo, truyền tất cả các bí quyết của mình cho học trò mà không hề đắn đo suy nghĩ, “làm phải chú ý tới tâm và tiếng, không nên nghĩ tới chuyện ăn thua thì mới nên - anh Liêm nhấn mạnh.
Theo Hoàng Ngọc – Hùng Lê (ĐS & PL)
PHẠM THỊ ANH NGA
Giới văn học nghệ thuật trong Nam ngoài Bắc cũng như những người từng là học trò của ông thường nói với nhau, tưởng như đùa nhưng lại rất thật, rằng đến Huế mà chưa ghé thăm ông thì coi như là chưa đến Huế, gì thì gì vẫn cứ... thiếu.
LÊ HUỲNH LÂM
Văn chương như một món ăn tinh thần cho mọi người. Đối với những người đam mê, các tác phẩm văn chương như hơi thở, như máu thịt. Ngoài việc là món ăn tinh thần, văn chương như những con đường vươn ra dẫn dắt để nối kết, giao thoa giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa vùng miền văn hóa này với vùng miền văn hóa khác.
LÊ VĂN LÂN
Trong phong trào đô thị Huế, từ phong trào hòa bình 1954 - 1955, phong trào Phật giáo ở Huế những năm 1963 - 1964 đến phong trào li khai ở Huế 1966, có một nhân vật khi nhắc đến hầu như ai cũng biết - đó là bác sĩ Lê Khắc Quyến, nguyên Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế, nguyên Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế.
ĐỖ MINH ĐIỀN
Ngày 01/10/2012, một tin vui không chỉ dành riêng cho Huế khi bộ Cửu vị thần công là 1 trong 30 hiện vật/nhóm hiện vật đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia Việt Nam.
NGUYỄN MINH VỸ
Hồi ký
Thú thật với các bạn Tạp chí Sông Hương và những ai cùng quê là trước Cách mạng Tháng 8-1945 tôi có phần nào "mặc cảm" vì cái gốc Thừa Thiên của mình.
LƯƠNG AN
Vào đầu nửa sau thế kỷ 19, tại Phú Xuân (tức Huế bây giờ), giữa lúc tiếng tăm hai anh em Miên Thẩm và Miên Trinh đang lừng lẫy, một sự kiện bỗng thu hút sự chú ý của giới thơ kinh thành: sự xuất hiện gần như đồng thời của Tam Khanh(1), ba nhà thơ nữ người hoàng tộc, trong đó, Thúc Khanh được ca ngợi nhiều hơn cả.
(SHO) Tiến sĩ Lê văn Hảo quê ở Huế, con trai ông Lê Văn Tập - một đại phú gia ở miền Trung, du học Pháp (1953), đỗ Tiến sĩ Đệ Tam cấp ngành Dân tộc học (1961) tại Đại học Sorbonne, làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (Centre national de la recherche scientifique) một thời gian rồi về nước (1965) giảng dạy Dân tộc học và Văn minh Việt Nam tại các Đại học Văn khòa Huế, Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Có một người phụ nữ xứ Huế sinh sống và giảng dạy tại CHLB Đức nhưng luôn dành tình trang trọng chiếc áo dài Việt Nam. Bà là TS triết học Thái Kim Lan, với bà, áo dài làm nên một phần bản sắc vẻ đẹp phụ nữ Việt Nam.
NGUYỄN HỒNG TRÂN
Như chúng ta đã biết qua sách sử, cựu Hoàng đế Bảo Đại có 2 người vợ được hôn thú chính thức. Đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng hậu) và bà người Pháp là Monique Marie Eugene Baudot.
LÊ VĂN LÂN
Những thập niên cuối thế kỷ XX, có một nhân vật lúc ẩn lúc hiện như rồng trong mây, như kình ngư giữa đại dương, có mặt ở các thời điểm lịch sử, có tác động đến phong trào giải phóng dân tộc ở Thừa Thiên Huế nói chung và phong trào đô thị Huế nói riêng.
PHAN THUẬN AN
"Hôm nay, Ngài trở về trong lòng đất mẹ thân yêu, trở về giữa tất cả đồng bào con Hồng cháu Lạc, trở về bên núi Ngự, sông Hương...
"Chúng ta thành kính cầu cho nhà vua đời đời yên nghỉ.
"Lòng yêu nước của nhà vua còn sáng mãi với sử xanh".
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
LTS: Thời Pháp thuộc cũng như thời tạm chiếm, những “thượng khách” đến du lịch Huế thường được bà công chúa Lương Linh (con gái thứ 19 của vua Thành Thái và là em út của vua Duy Tân) hướng dẫn.
LÊ TIẾN DŨNG
Một ngày cuối thu tháng Mười năm 1965 tôi nghe qua Đài Tiếng nói Việt Nam một tin quan trọng: Hội Văn nghệ Giải phóng công bố Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu.
ĐOÀN XANH
Nhà thơ, nhà báo Thúc Tề bị Pháp thủ tiêu khi mới 30 tuổi. Gần 50 năm sau, bí mật được phát lộ, Nhà nước đã truy tặng ông danh hiệu Liệt sĩ với bằng Tổ quốc ghi công.
Ở tuổi 75, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân vẫn miệt mài bên chiếc máy tính để làm việc mỗi ngày. Ông luôn mang theo bên người một chiếc máy ghi âm, loại dùng bằng băng cassette, ông có thói quen ghi lại bất cứ buổi làm việc nào với các phóng viên báo, đài... Đón tôi trong con hẻm nhỏ dẫn vào ngôi nhà ở một quận gần trung tâm Sài Gòn, ông đội chiếc mũ kiểu Huế và những tiếng “răng, ni, nớ” rất Huế của ông mang lại cho tôi sự gần gũi để bắt đầu buổi trò chuyện.
Nhà văn ÁNH HƯỜNG (thực hiện)
Ngày 9/6/2014, nhà báo Nguyễn Khoa Bội Lan đã vĩnh biệt chúng ta, hưởng thượng thượng thọ 105 tuổi
Tôi lặng lẽ đi tìm về nhà "O Thương trống” mà trong lòng có cảm giác như một đứa con đi xa lâu ngày trở về với mẹ để được nghe mẹ kể chuyện đời, chuyện nghề.
Có lẽ cho đến nay, ông Lê Văn Kinh là nghệ nhân làng nghề truyền thống lập nhiều kỷ lục nhất VN. Ông đã lập kỷ lục về bộ tranh thêu bài thơ "Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền sư bằng 14 thứ tiếng. Tiếp đó là bộ Tâm kinh Bát Nhã Ba La Mật. Đầu tháng 5-2014 vừa qua, ông tiếp tục xác lập kỷ lục thứ ba, đó là thêu tay hai bài thơ "Tẩu lộ” và "Hoàng hôn” - hai bài thơ trong tập "Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
VÕ SƠN TRUNG
Con người đó, là nhà văn, nhà văn hóa, nhà từ điển học Đào Đăng Vỹ cực kỳ nổi tiếng ở Huế từ những năm 1940. Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm 1908 tại Huế, có tài liệu nói ông mất ngày 7/4/1987 tại California - Mỹ(1).
Cật tre được lựa từ rừng già, xung quanh lồng được chạm trổ tuồng tích như một bức tranh hoàn hảo… Những chiếc lồng chim như một tác phẩm nghệ thuật ấy có giá cả chục triệu đồng.