Gagaku, nhã nhạc Nhật Bản

15:54 05/01/2009
PHAN THUẬN THẢOGagaku - Nhã nhạc - là loại hình âm nhạc cung đình của Nhật Bản, đối lập với Zokugaku, tức âm nhạc dân gian. Thuật ngữ Gagaku được tiếp thu từ Trung Hoa cùng với sự tiếp nhận một bộ phận các nhạc khí và bài bản từ hệ thống âm nhạc cung đình phong phú và đặc sắc của đất nước Trung Hoa rộng lớn và giàu truyền thống văn hoá.

Đàn Koto trong dàn nhạc Kangen

1. Vài nét về lịch sử:
Gagaku có một lịch sử lâu đời, được phát triển hoàn thiện vào khoảng thế kỷ X, dưới thời Heian (794 - 1191) (1). Đây là một hợp thể của nhiều loại hình âm nhạc và múa có cội nguồn từ nghệ thuật truyền thống bản địa, cùng những ảnh hưởng không nhỏ từ Á châu lục địa. Những ảnh hưởng này xảy ra từ rất sớm, đó là sự giao lưu và tiếp thu các yếu tố âm nhạc đến từ các nước Trung Hoa, Triều Tiên, Ấn Độ, Champa... Đặc biệt, vào đầu thế kỷ VIII, Nhật Bản đã tiếp thu một bộ phận âm nhạc cung đình Trung Hoa và theo đó, thuật ngữ Gagaku, tức Nhã nhạc cũng được truyền từ Trung Hoa vào Nhật Bản. Điều đáng lưu ý là vào thời kỳ này, cung đình Nhật Bản đã có sẵn hệ thống âm nhạc nghi lễ bản địa là âm nhạc Shinto giáo, nên họ chỉ tiếp thu loại hình âm nhạc giải trí từ cung đình Trung Hoa, đó là Yến nhạc, nhưng thuật từ mà họ vay mượn lại là Nhã nhạc, tức âm nhạc nghi lễ Khổng giáo của Trung Hoa. Giáo sư Hisao Tanabe người Nhật Bản cho rằng sự nhầm lẫn này là do nguyên nhân vào năm 701, khi âm nhạc Trung Hoa ồ ạt tràn vào nước Nhật, Nhật Bản đã cho thành lập một cơ quan chuyên trách âm nhạc cung đình, cơ quan này được đặt tên là Gagaku-ryo mô phỏng theo tên gọi của tổ chức âm nhạc tương tự trong cung đình Trung Hoa. Chính vì thế, loại hình âm nhạc được tiếp thu (đúng ra là Yến nhạc) cũng được gọi là Gagaku, tức Nhã nhạc (2).

Sau thời kỳ mở rộng giao lưu với âm nhạc các nước, vào cuối thời kỳ Heian, Nhật Bản bắt đầu tái thiết và bản địa hoá các yếu tố ngoại lai trong Gagaku. Các dàn nhạc được sắp xếp lại, một số nhạc cụ nước ngoài bị thải bỏ, nhiều bài bản âm nhạc được sáng tác mới... Nhờ đó, Gagaku thời kỳ này mang đậm sắc thái cung đình Nhật Bản.
Từ thế kỷ XII, dưới sự chuyên chế của các shogun bấy giờ nắm hết quyền lực trong tay, Thiên hoàng bị yếm thế, cô lập, đời sống cung đình không còn phong phú như xưa. Nhã nhạc Nhật Bản, vì thế, bắt đầu lâm vào tình trạng suy thoái. Trong suốt những thế kỷ tiếp theo, đôi khi nhờ có sự quan tâm của một số vị Thiên hoàng và Shogun, Gagaku đã trải qua những giai đoạn được phục hồi, vì thế, truyền thống vẫn được tiếp nối ở một chừng mực nào đó. Cũng trong giai đoạn này, một số công trình nghiên cứu công phu về Gagaku được biên soạn, đó là cuốn Taigheasho của Toyohera và bộ sách Gakkaroku  đồ sộ của Abe Suehishu (1622 - 1708) (3). Đây là những công trình nghiên cứu sâu sắc, rất có giá trị tham khảo đối với người đời sau.

Dưới thời Minh Trị Thiên Hoàng (1868 - 1812), một ông vua cầu tiến đã thực hiện nhiều cuộc cải cách khiến cho nước Nhật gần như thay đổi hoàn toàn, Văn hoá nghệ thuật nói chung và Gagaku nói riêng, nhờ đó, cũng được phục hồi và phát triển. Tuy nhiên, vào giữa thế kỷ XX, khi nước Nhật rơi vào tình trạng khủng hoảng, Gagaku lại bị suy thoái nghiêm trọng. Mãi cho đến khi nền kinh tế đất nước được phục hưng vài thập kỷ sau đó, Gagaku mới được trở lại vị trí vốn có của nó. Hiện nay, Gagaku vẫn được biểu diễn trong hoàng cung và các ngôi đền Shinto giáo. Phong cách âm nhạc đặc biệt của Gagaku đã được truyền bá đi nhiều nơi và trở thành nguồn cảm hứng cho các sáng tác mới của nhiều nhạc sĩ hiện đại.

2. Các hình thức diễn xướng trong Gagaku:
Nhìn một cách tổng quát, trong Gagaku có 3 hình thức diễn xướng, đó là Kangen (Khí nhạc), Bugaku (Vũ nhạc) và Kayô (Thanh nhạc). Chúng ta hãy lần lượt xem xét 3 hình thức diễn xướng này để phần nào thấy được những đặc điểm, tính chất của Nhã nhạc Nhật Bản.
2.1. Kangen: là dàn nhạc chuyên diễn tấu các bài bản khí nhạc. Kangen nghĩa đen là dàn nhạc gồm các nhạc cụ hơi và dây, song trên thực tế còn có thêm các nhạc cụ gõ đảm nhiệm phần tiết tấu. Dàn Kangen gồm có các nhạc cụ như sau:
Nhạc cụ Hơi:
-Shô: là nhạc cụ như Sheng của Trung Hoa và Khèn của Việt .
-Hichiriki: một loại kèn có dăm kép, tương tự như kèn Bóp của Việt .
-Ryuteki: một loại sáo có 7 lỗ bấm.
Nhạc cụ Dây:
-Biwa: nhạc cụ hình quả lê có 4 dây, giống như P'ipa của Trung Hoa và Tỳ bà của Việt .
-Koto: hình dáng tương tự như đàn Tranh của Việt , có 13 dây.
Nhạc cụ Gõ:
-Kakko: một loại trống đặt nằm ngang như trống Cơm Việt , dùng dùi gõ vào hai mặt.
-Taiko: trống lớn.
-Shôko: cồng bằng đồng.
Trong dàn Kangen, các nhạc cụ hơi đóng vai trò chủ đạo, trong đó, cây kèn Hichiriki đi giai điệu chính, sáo Ryuteki chơi giai điệu theo kiểu biến thái, còn Shô đi phần bè đệm. Các nhạc cụ dây và gõ đảm nhiệm phần tiết tấu. Âm nhạc do dàn Kangen diễn tấu thường có tính chất chậm rãi, trang trọng và đầy tính triết lý.

2.2. Bugaku
(Vũ nhạc): là loại hình âm nhạc đi kèm với múa. Bugaku gồm có 3 loại:
- Kuniburi-no-Mai (múa bản địa): là những điệu múa và âm nhạc có nguồn gốc cổ xưa trong văn hoá bản địa Nhật Bản. Các điệu múa này có động tác và trang phục tương đối đơn giản, nhưng cũng rất uyển chuyển và nhịp nhàng.
- Sa-no-Mai (Múa Bên Trái): gọi là Múa Bên Trái vì khi trình diễn những điệu múa này, vũ công xuất hiện từ phía bên trái sân khấu (nhìn từ khán đài). Múa Bên Trái mang tính Dương, có hình ảnh mặt trời làm biểu tượng, vũ công mặc áo màu đỏ. Đệm cho loại múa này là dàn nhạc Togaku, với các loại hình âm nhạc đến từ Trung Hoa và các nước Trung Á, Ấn Độ, Ba Tư thông qua con đường Trung Hoa.
- U-no-Mai (Múa Bên Phải): gọi là Múa Bên Phải vì khi trình diễn những điệu múa này, vũ công xuất hiện từ phía bên phải sân khấu (nhìn từ khán đài). Múa Bên Phải mang tính Âm, biểu tượng là hình ảnh mặt trăng, vũ công mặc trang phục màu xanh lục. Loại âm nhạc đệm cho Múa Bên Phải là Komagaku, tức âm nhạc ảnh hưởng từ Triều Tiên, bao gồm cả âm nhạc vùng Mãn chu (ở phía đông bắc Trung Quốc).

2.3. Kayô (Thanh nhạc):
- Saibara:
là những bài hát dân gian được cung đình hoá và trở thành hình thức thanh nhạc phục vụ cho nhu cầu giải trí của hoàng gia và giới quí tộc nói chung. Khác với các thể loại Khí nhạc, Vũ nhạc phải do các nhạc công chuyên nghiệp biểu diễn, các bài hát Saibara được giới quí tộc tự trình diễn và thưởng thức với nhau, và cũng chính họ là người đã duy trì truyền thống Saibara qua nhiều thế kỷ.
- Rôei: là những bài hát có tính chất ngâm ngợi dựa trên các lời thơ Tàu nhưng được phát âm theo tiếng Nhật. Suốt các thời đại Nara và Heian, các lối thơ của Trung Hoa rất thịnh hành ở Nhật, từ đó, hình thành nên hình thức nhạc hát Rôei. Cũng như Saibara, Rôei được lưu truyền và gìn giữ bởi các gia đình quí tộc. Về sau, dưới thời Meiji, các nhạc công cung đình tiếp nhận các bài bản Rôei từ giới quí tộc, đồng thời, họ cũng sáng tạo thêm nhiều bài bản mới để bổ sung và làm phong phú thêm hệ thống nhạc mục của Rôei.
Ngoài ra, còn có một số hình thức ca hát kết hợp với múa có nguồn gốc bản địa. Trong số này, điển hình có các thể loại Kagura, Azuma-Asobi. Các hình thức ca múa này được nâng cao và hoàn thiện vào giữa thời kỳ Heian và thường được dùng trong các dịp lễ hội cung đình.

Tóm lại, Gagaku - Nhã nhạc Nhật Bản - là một trong những truyền thống âm nhạc chuyên nghiệp có lịch sử lâu đời nhất trên thế giới còn tồn tại đến ngày nay. Loại hình âm nhạc này vừa mang đậm tính bản địa, vừa thể hiện sự giao lưu với các nền văn hoá phong phú của châu lục. Với các hình thức diễn xướng phong phú, mang tính đặc thù cao, Gagaku thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà chuyên môn trong và ngoài nước cùng sự đánh giá cao của quần chúng. Do thuận lợi vẫn được nuôi dưỡng trong môi trường cung đình, Gagaku đang được bảo tồn ở tình trạng rất tốt, mặt khác, lại được phát triển theo những chiều hướng sáng tác mới của các nhạc sĩ đương đại. Hai hướng bảo tồn và phát triển hiện vẫn song song tồn tại, không mâu thuẫn, không áp chế lẫn nhau, cùng đưa Nhã nhạc Nhật Bản tồn tại và phát triển với thời gian. Đây có thể xem là một thí dụ điển hình cho phương pháp bảo tồn, phát huy và phát triển các hình thức âm nhạc dân tộc mà nhiều quốc gia, trong đó có Việt , cần tham khảo kinh nghiệm.
            
      P.T.T

(nguồn: TCSH số 212 - 10 - 2006)

 



--------------
(1) Các mốc lịch sử được tham khảo từ sách Lịch sử Nhật Bản của R.H.P Mason & J.G. Caiger, bản dịch của Nguyễn Văn Sĩ, NXB Lao Động, Hà Nội, 2004.
(2) Hisao Tanabe, “Gagaku”, Ongaku, Jiten, vol 2, p 206, dẫn từ Robert Garfias,
Music of a Thousand Autumns, University of California Press, USA.
(3) Văn Minh Hương,
Gagaku và Nhã nhạc, NXB Thanh Niên, Thành phố Hồ Chí Minh, 2003, tr 46 và 48.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • MẶC HY    Hồi kýThế là tôi và Lê Lự, mấy đêm nay, lại được nằm chỏng khoèo trên mấy tấm ván nóc chuồng trâu nhà mẹ An tại Khe Giữa để đón một cái Tết thứ hai ở chiến khu Ba Lòng.

  • NGUYỄN VIỆT ĐỨC1.Về bản sắc văn hoá dân tộc.Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.

  • VĨNH PHÚCNghiên cứu, phê bình, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Hò và Lý, kể cả những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.

  • MẶC HY                Hồi ký "Lúa vàng! Lúa vàng trên cánh đồng làng, tang tình tang, tang tình tang... Đêm nay, gặt mà lúa về... ta đập mà ta xay, ta giã mà ta giần..."

  • MAI VYSự sáng tạo nghệ thuật của giới nghệ sĩ biểu diễn xuất phát từ cảm xúc trước tác phẩm, trước cuộc sống. Đó là đặc thù trong quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Mối quan hệ đó bao giờ cũng là mối quan hệ có tính chất cảm tính. Người nghệ sĩ chân chính nào cũng có khả năng cảm xúc rất nhạy bén trước đối tượng được thể hiện. Họ có khả năng lồng trí tưởng tượng vào trong quá trình sáng tạo cốt để thâm nhập sâu hơn vào bản chất của các sự vật.

  • NGUYỄN THỤY KHACó thể nói, khi có loài người là có âm nhạc. Thực ra những âm thanh trong thiên nhiên, vũ trụ có trước loài người. Nhưng loài người không chỉ nghe được nó như loài thú chỉ đạt tới cảm xúc, mà còn nhận thức nó, bắt chước nó để tạo ra những âm thanh của mình. Một cành cây hay một khúc xương, người làm ra cây sáo. Sợi dây cung trở thành dây đàn. Một tấm da thú căng ra là thành cái trống.

  • MAI VYÂm nhạc là một bộ môn nghệ thuật có nhiều loại hình phong phú và đa dạng, từ làn điệu dân ca mộc mạc, từ nét nhạc tấu đơn giản của cây đàn nghiệp dư, đến những bản a-ri-a hết sức phức tạp trong ô-pê-ra hay các hình thức âm nhạc giao hưởng khác nhau như liên khúc giao hưởng, Trường ca giao hưởng.

  • NGUYỄN THỤY KHAVới độ dày gần nửa mét, gồm 7 quyển sách chia làm 5 tập (có tập 2 và tập 5 gồm 2 quyển) và bìa sách trình bày đẹp, trang trọng, bộ sách “Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX” là bộ sách âm nhạc đồ sộ và công phu nhất của ngành âm nhạc từ trước đến nay do Viện Âm nhạc Việt chủ biên và ấn hành vừa giới thiệu trước công luận gần đây.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã gần một năm, Anh từ biệt trần gian về cõi vĩnh hằng, tâm tưởng tôi vẫn vấn vương với Anh, vẫn luôn mường tượng thấy Anh với nụ cười tươi tắn, rất hồn nhiên, lại nhiều lúc thấy Anh đang mơ màng chìm trong một thế giới riêng tư xa thẳm nào đó.

  • NHẤT LÂMVâng.Ca khúc thời ấy thật hào hùng, sôi sục và đầy lãng mạn.Đó là đêm trước của tháng Tám năm 1945, những năm tháng của phong trào Việt Minh chuẩn bị cho ngày toàn dân vùng lên đánh đổ mọi thế lực thù địch để giải phóng dân tộc, đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Và cái mốc đó, theo tôi là từ ngày cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) năm 1941.

  • VIỆT ĐỨCVề với Trường Sơn, về với kỷ niệm của một thời khói lửa đạn bom là tiếng lòng, là tâm nguyện của nhiều hội viên Hội nhạc sỹ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế kể từ sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam 30/4/1975. Và sau gần 30 năm, mùa xuân 2004, tâm nguyện ấy đã trở thành hiện thực khi kỷ niệm của một thời chiến tranh cứ ào ạt ùa về theo bước chân các nhạc sỹ trở lại tuyến biên giới miền Tây A Lưới.

  • LÊ PHÙNGThế là không còn phút giây mong ngóng, đợi trông - “Ngày em đến đôi mắt long lanh, thơ ngây mơ màng, ngày em đến đôi má hây hây hương thơm nồng nàn...” Bởi chàng nhạc sĩ lãng tử ấy đã ra đi, về với cõi vĩnh hằng. Còn đâu nữa bóng hình của gã si tình say mê, đợi chờ ngày em đến.

  • Nhà thơ - Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo là một tên tuổi nổi tiếng như một nghệ sĩ đa tài Cầm Kỳ Thi Họa trong làng văn học nghệ thuật Việt . Ông là Ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà Văn Việt Nam, người sáng lập và phụ trách tờ báo Thơ, nay là tạp chí Thơ; ông cũng là một trong những ngưới sáng lập ra Ngày Thơ VN.

  • DƯƠNG BÍCH HÀĐến hẹn lại lên - Festival Huế 2006 đã cận kề. Năm nay, ngoài các loại hình dân ca, dân nhạc, dân vũ; các lễ hội, kịch, tuồng... đặc sắc của Huế, ban tổ chức (BTC) Festival nhấn mạnh một số trọng tâm như: Giao lưu nhã nhạc Việt Nam - Nhật Bản - Hàn Quốc; không gian văn hoá cồng chiêng (nhân cồng chiêng được công nhận là di sản văn hoá); có dàn giao hưởng dân tộc; chương trình thử nghiệm đưa âm nhạc điện tử, nhạc Jar của Pháp kết hợp với âm nhạc truyền thống Huế, âm nhạc Phật giáo; và chương trình âm sắc Việt...

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGCó ngày bỗng dưng thấy lòng thật quạnh hiu. Một nỗi cô đơn nào đó khôn tả xâm chiếm tâm hồn. Tôi đi hoài, lang thang vô định trên những con đường phố Huế xanh xao ánh đèn vàng, bất chợt lòng vang lên giai điệu quen thuộc một ca khúc nào đó của Trịnh Công Sơn. Tự hát cho riêng lòng mình và thấy nỗi buồn vơi đi, lòng cơ hồ bằng an và niềm vui trở lại.

  • NGUYỄN VIỆT ĐỨCQua tiến trình phát triển của lịch sử âm nhạc thế giới, riêng trong lĩnh vực ca khúc chúng ta đều biết có những ca khúc là của mọi thời đại, có những ca khúc chỉ của một thời, có những ca khúc chỉ của một dòng nhạc phục vụ cho nhu cầu của một lớp công chúng riêng nào đó, có những ca khúc lại phù hợp với khá nhiều lứa tuổi và đông đảo công chúng, có những ca khúc chỉ của một vài ngày, có những ca khúc mãi mãi nằm trên giấy...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐọc Dòng nước trong (Ca khúc Bích Anh), Nxb Đà Nẵng, 2006

  • HOÀNG DIỆP LẠCCó sự gắn kết nào đó gần như là định mệnh giữa hai con người Trịnh Công Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng. Sơn và Hoàng có cùng quê quán ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Và cả hai đã sinh ra ở miền cao nguyên, nơi bụi đỏ và sương mù hoà trộn, tạo thành những hạt huyết dụ trôi chảy theo các mạch máu trong thân thể của những con người xứ bụi mịt mùng.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Kỷ niệm 6 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 1/4/2001 - 1/4/2007)Với dòng - sông - Trịnh, đi về biển rộng là một cuộc hành trình trở về với nguồn cội. Dòng sông tìm về biển cả để thấy được sự mệnh mông, hùng vĩ và tuôn trào của biển cả. Tuy nhiên đấy cũng là sự bắt nguồn cho những vết xước trầm tích trong lòng người ở lại - như cọng rễ hoang nay mới đủ sức đâm lên một mầm nhói!

  • NGUYỄN THỤY KHAVào khoảng năm 1962 ở miền Bắc, bỗng rộ lên một bài tình ca ngắn mang tên “Giã từ”. Bài hát được truyền miệng rộng rãi và nếu có ai đó ký âm thành văn bản thì đều ghi là bài hát Liên Xô (CCCP).