NGÔ THỊ Ý NHI
Ở Huế, có những buổi sáng cứ thích nằm nghe tiếng con nít rủ nhau đến trường ríu rít như chim. Bình yên đến lạ! Thành phố nhỏ bé, nhịp sống không vội vàng, những con đường hiền lành, êm ả trẻ con dễ dàng đi bộ.
Hồi đó chị em tôi cũng vậy. Nhà tôi ở An Lăng, chỉ cần đi dọc theo dòng sông An Cựu, qua cầu Kho Rèn rồi cứ thẳng đường Lý Thường Kiệt mà đi. Dọc đường có vài ba chị em nhà khác nhập bọn cùng chúng tôi. Cứ thế, đông dần cho đến khi ngôi trường hiện ra trước mắt. Trường Tiểu học Lê Lợi. Dòng sông “nắng đục mưa trong” có rất nhiều bến nước. Nhưng cái bến chị em tôi thích nhất là bến trước ngõ nhà tôi. Bến có nhiều bậc đá, có cây vông đồng to cao thân đầy gai nhọn tỏa bóng mát rợp một vùng. Các bà, các chị vẫn ra giặt giũ. Tôi thích nhìn người ta giặt chiếu. Chiếc chiếu gấp lại, đưa lên cao rồi đập mạnh đánh “bộp”. Nước bắn tung tóe. Hai chị em vuốt mặt, giũ tóc cười như nắc nẻ rồi mới chịu quày quả dắt nhau đi. Mẹ đã cấm không được mon men xuống bến: “Dưới sông có con ma rà rình con nít. Nó kéo hụt chân chết chìm”. Mẹ nói vậy đó. Sợ lắm nhưng chưa đứa nào thấy con “ma rà”. Hai cô nhóc vẫn lén ba mẹ lò mò xuống mấy bậc đá, nhúng hai bàn chân bé xíu xuống mặt nước lấp xấp rồi mới chịu quay lên. Nhưng một bữa hai đứa thấy một chiếc dĩa hoa trôi bập bềnh theo dòng nước. Chiếc dĩa có hoa văn như chiếc dĩa mẹ vẫn dọn ăn. Nó làm bằng sành sao có thể nổi trên mặt nước. Như vậy nó là... ma rồi. Con ma rà giả bộ biến thành cái dĩa để người ta tham lội ra vớt rồi kéo chân thế mạng. Hai đứa thầm thì bàn tán dáo dác ngó tới ngó lui. Cái dĩa hoa vẫn bập bềnh nhấp nhô theo dòng nước. Bốn bàn chân líu quíu bỏ chạy. Và từ đó trên đường đi học cả hai không dám rủ rê la cà mấy bến sông nữa.
Cuối năm lớp bốn, ba mẹ chuyển nhà về chợ An Cựu. Lộ trình đi học không thay đổi mấy. Thay vì đi bên này sông An Cựu thì chúng tôi đi dọc bên kia,và không phải qua cầu Kho Rèn nữa. Trên đường đi học về, chưa đến cung An Định có một ngôi nhà cổng gỗ sơn xanh. Cứ mỗi lần chị em tôi đi ngang là vang lên tiếng chó sủa inh ỏi. Mấy hôm đầu thì cũng có hơi sờ sợ nhưng khi khám phá ra con chó hung dữ đó đã bị xích vào cột thì hai chị em mừng ra mặt. Hai đứa đu vào cánh cổng thò đầu sủa “gâu gâu”. Con chó lồng lộn “gâu gâu” đáp lại. Vùng vẫy, hung dữ mà làm gì! Mày bị xích rồi. Cả hai cười như nắc nẻ, chán rồi mới chịu bỏ đi. Được hai ba hôm chi đó. Một buổi chiều mưa lâm thâm, hai đứa hai cái áo mưa kín mít hớn hở tiến dần đến cái cổng xanh. Chỉ mới thò đầu vào, chưa kịp “gâu gâu” thì con chó nhảy chồm lên mấy chấn song. Nó không còn bị xích. Hai đứa thất kinh hồn vía cắm đầu chạy. Con chó phá được cổng lao ra. Thay vì chạy trên đường cái thì cả hai nhào xuống mé sông lấp xấp nước. Cô em trượt té. Con chó táp một miếng vào cái áo mưa. Có tiếng chân người rồi tiếng quát: “Vàng, vô nhà”. Hú vía! Sau lưng bà chủ nhà cao giọng mắng. Mặt cắt không còn giọt máu, hai đứa im thin thít líu ríu hết quãng đường về. Dĩ nhiên hai chị em đối diện ba mẹ với hình dạng xác xơ thảm hại. Cô chị luôn là người “đứng mũi chịu sào” khóc tấm tức: “Tụi con không làm chi hết, tự nhiên con chó đuổi cắn con”. Ba lắc đầu ngao ngán. Hôm sau ông chở hai cô con gái đi học bằng con đường khác. Nghe ba nói đó là đường Nguyễn Huệ. Trên đường đi ba lưu ý cung đường nào nhiều xe, ngã tư nào phải cẩn thận. Và rồi mấy bữa sau hai chị em tôi tiếp tục dắt nhau chân sáo đến trường.
Mưa! Vẫn những ngày mưa lê thê của Huế. Những buổi chiều tan lớp trời nặng một màu chì. Con đường như dài hơn. Hai chiếc áo mưa, bốn bàn chân nhỏ xíu. Mỗi lần thấy tháp nhà thờ hiện ra là sắp đến nhà. Nhưng một bữa hai chị em dừng lại ngước mắt nhìn lên. Bóng giáo đường thâm u quạnh quẽ. Và phía trước là một bức tượng, tượng Chúa, hẳn nhiên rồi. Bức tượng lớn lắm, đứng trên bệ cao uy nghi sừng sững. Hai đứa nhìn, nhìn mãi. Khuôn mặt đó, chiếc áo choàng thùng thình và hai cánh tay giơ ra in hình trên bầu trời xám xịt. Ít lâu sau đó, cô chị theo bạn bè đi một con đường khác. Dĩ nhiên là ba mẹ không biết chuyện này. Con đường uốn quanh bên cánh đồng mênh mông. Hai bên đường là hai hàng cây cao đến mùa có những chùm trái nhỏ. Nghe người ta bảo đó là cây muối. Không hiểu sao lại có tên này. Chắc trái nó có vị mặn. Nghĩ thế thôi nhưng chẳng đứa nào dám nếm thử vì sợ “chết dại”. Con đường này chúng tôi gọi là đường hàng muối, lúc nào cũng tấp nập xe cộ.
Trời cứ mưa! Những ngày mưa lê thê dầm dề của Huế! Một buổi chiều như mọi buổi chiều, vẫn hai chiếc áo mưa lúp xúp, bốn bàn chân bé xíu lầm lũi trong dòng xe cộ ngược xuôi. Một chiếc xe dừng lại:
- Nhà hai cháu ở đâu?
Cô chị nhanh nhẩu:
- Dạ, chợ An Cựu.
- Lên chú chở về.
Hai chị em leo lên ngồi gọn lỏn trong chiếc xe bịt bùng ấm áp. Chỉ một thoáng là về đến nhà. Mẹ ngạc nhiên không biết sao hôm nay hai chị em về quá sớm. Cả hai tíu tít: “Có chú nớ, chú chở tụi con về”. Mẹ hốt hoảng ôm lấy cả hai: “Răng dại rứa con ơi! Nì, cấm. Cấm tuyệt đối không được lên xe người lạ. Nghe chưa! Có ngày người ta chở hai chị em đi mất ba mạ biết mô mà tìm”. Rồi bà thở ra quay người đi lẩm bẩm: “Thời buổi chừ biết tin ai! Thiện ác lẫn lộn”. Hai chị em, cô chị lớp năm, cô em lớp ba ngơ ngác coi bộ hoang mang lắm.
Tối về, ba biết chuyện. Không phải chỉ lo “thời buổi chừ” mà còn cái lo khác nữa. Con đường đó xe chạy năng lắm. Nhất là xe nhà binh phóng rất ẩu. Nguy hiểm! Bởi vậy ba không chỉ chị em con đi đường hàng muối. Thôi thì để khỏi rắc rối lôi thôi, đi xe đò cho an toàn.
Xe đò cũng như xe buýt ngày nay nhưng nhỏ hơn. Hai băng ghế dọc theo hai bên thành xe đông đúc các bà, các chị. Giữa lòng xe là thúng, mủng, hàng hóa chất chồng. Anh lơ xe đu bám phía sau vỗ vỗ vào thành xe ra hiệu khởi hành. Hai chị em lọt thỏm trong những chuyến xe ồn ào như thế để đến trường. Bên đường, những hàng muối lùi dần, lùi dần về phía sau. Đồng ruộng mênh mông chìm vào cơn mưa dầm dề ướt át. Tôi nhìn, nhìn mãi mà không biết rằng những chuyến xe đó chở chị em tôi xa dần, xa dần thời thơ ấu...
Những năm tháng xa xưa ấy vẫn bất chợt trở đi trở lại trong tôi một sớm một chiều nào đó. Sau này lớn lên, mỗi lần về Huế có dịp đi ngang qua ngôi giáo đường xưa cũ tôi vẫn dừng lại rất lâu trước tượng Chúa Cứu thế. Ngài vẫn khoan hòa đứng đó với vòng tay dang rộng. Và trước mắt tôi hiện ra hình ảnh hai cô bé ngoại đạo với đôi chân bé bỏng dại khờ hốt hoảng quay người chạy trốn. Lạy Chúa! Con biết dẫu chạy đi đâu thì chị em con cũng không ra khỏi vòng tay của Ngài. Ngài đã rộng lòng che chở chị em con! Ôi, những con đường, những con đường đến lớp...“Thời buổi chừ biết mô thiện ác!” Câu nói của mẹ ám ảnh tôi đến tận bây giờ. Thời nào thì cái ác vẫn lẫn vào cái thiện, đội lốt cái thiện không chừng. Mà trẻ thơ thì non nớt quá, khờ dại quá. Trẻ thơ cứ hồn nhiên phạm sai lầm mà không hề ý thức rằng nguy hiểm đang chờ chực xung quanh. Dẫu thời đại bốn chấm không đi nữa, dẫu camera khắp hang cùng ngõ hẻm đi nữa thì căn bản vẫn là lòng dạ con người. Cần lắm những vòng tay che chở.
Cách đây chưa lâu một cô bé, chắc cũng trạc tuổi chị em tôi hồi đó, theo ba mẹ rời Việt Nam đến một xứ sở tốt đẹp, hiện đại, nổi tiếng luật pháp nghiêm minh. Vậy mà đau đớn thay, em đã bị xâm hại rồi sát hại khi còn mang cặp sách trên vai, hớn hở tung tăng trên đường đến lớp…
N.T.Y.N
(SHSDB35/12-2019)
BỬU Ý
Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.
LÊ QUANG KẾT
Ký
Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).
VŨ THU TRANG
Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.
HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
Đoản văn
Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!
LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ
BÙI KIM CHI
Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.
KIM THOA
Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
(Hàn Mạc Tử)
NGUYỄN VĂN UÔNG
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
(Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.
LÊ QUANG KẾT
Tùy bút
Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.
TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.
LÊ QUANG KẾT
Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.
HUY PHƯƠNG
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên
(Tố Hữu)
PHAN THUẬN AN
Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.
MAI KIM NGỌC
Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.
HOÀNG HUẾ
…Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…
QUẾ HƯƠNG
Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.
THU TRANG
Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.