Đường đã mở...

14:15 15/01/2010
(Thừa Thiên Huế trên tiến trình xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương)


TRƯỜNG AN


          Ghi chép


Kết luận 48 của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển Thừa Thiên Huế và đô thị Huế đến năm 2020 đã tạo nên một luồng gió hân hoan mát rượi, đầy phấn khích thổi qua miền đất trải dài từ dòng Ô Lâu đến Hải Vân Quan. Đó là ngọn gió mang màu xanh của cái nhìn biện chứng về vùng đất Cố đô, của lòng tự hào và trách nhiệm, của khát vọng và tình yêu xứ xở, của ngập tràn hy vọng ẩn chứa bên trong sức bật nội lực tiềm tàng của lòng quyết tâm xây dựng quê hương giàu mạnh xuyên suốt bao thế hệ... Đây cũng chính là ngọn gió mà người dân Thừa Thiên Huế đã bao nhiêu năm mong đợi. Vì vậy khi đón nhận nó với những tín hiệu mát lành và lạc quan, người người phấn khích như thỏa lòng mong ước là lẽ rất thường tình. Những cuộc điện thoại đường dài, những dòng email hồ hởi báo tin: Thừa Thiên Huế sẽ sớm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Tiếng thì thầm như reo lên, như muốn nhảy cẫng lên, bung ra khỏi lồng ngực, vang xa...

Giá trị của vị trí Thừa Thiên Huế đã được Bộ Chính trị đánh giá: “là vùng đất văn hiến, có bề dày lịch sử, văn hóa đặc sắc và truyền thống cách mạng vẻ vang... Đây cũng là nơi Bác Hồ và gia đình Bác đã từng sinh sống, học tập... Thừa Thiên Huế có thành phố Huế - Cố đô  của Việt Nam, là đô thị loại I, thành phố di sản văn hóa thế giới, thành phố Festival và theo quy hoạch, Huế là 1 trong 5 đô thị cấp quốc gia, khu vực và quốc tế; là trung tâm văn hóa, du lịch; trung tâm y tế chuyên sâu; trung tâm đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực của miền Trung và của cả nước. Thừa Thiên Huế còn là nơi hội tụ đầy đủ các tiềm năng, thế mạnh để phát triển nhanh hơn trong thời kỳ CNH-HĐH; là một cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và của cả nước, là trọng điểm của quốc phòng, an ninh của quốc gia. Xây dựng phát triển Thừa Thiên Huế và đô thị Huế có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt đối với miền Trung - Tây Nguyên và đất nước”. Theo đó, mục tiêu đến năm 2020, sẽ “xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong vài năm tới, là trung tâm của khu vực miền Trung và một trong những trung tâm lớn, đặc sắc của cả nước về văn hóa, du lịch; khoa học - công nghệ, y tế chuyên sâu và giáo dục - đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao. Phấn đấu đến năm 2020, Thừa Thiên Huế xứng tầm là trung tâm đô thị cấp quốc gia, khu vực và quốc tế, một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ, y tế, đào tạo lớn của cả nước và khu vực các nước Đông Nam châu Á...”

Đó thật sự là hoài bão của bao thế hệ người dân Thừa Thiên Huế. Nơi ấy, những người mẹ nghèo đã chắt chiu không quản tháng ngày cho con cái học hành cũng chỉ vì ước muốn những đứa con sẽ trở thành người hữu ích cho đời, cũng như có vị thế giữa thế gian, xứng đáng với vùng đất văn hóa, giàu truyền thống học hành...

Tầm nhìn của Bộ Chính trị, cũng là khát vọng của những người dân yêu xứ sở của mình rất mực. Vấn đề thời sự đặt ra cho chính quyền và nhân dân Thừa Thiên Huế là làm sao xây dựng Thừa Thiên Huế sớm trở thành Thành phố trực thuộc Trung ương?

Sức mạnh tổng lực của toàn thể Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thừa Thiên Huế được huy động. Kết luận số 48 của Bộ Chính trị được triển khai rộng khắp, nhanh chóng đi vào cuộc sống.

Khởi điểm là văn hóa. Văn hóa Huế đang tiếp tục được chú trọng gìn giữ và phát huy truyền thống, phát huy di sản trong bối cảnh phát triển. Đời sống văn hóa đô thị Huế được đặt ra, gắn liền với các yếu tố về mức sống, lối sống, lý tưởng sống, thị hiếu, giải trí, thói quen... trong xã hội hiện đại. Đời sống văn hóa của nông thôn trong tiến trình đổi mới và hội nhập cũng được tính đến, chẳng hạn làm sao những thách thức đối với các giá trị truyền thống không tác động quá lớn đến những miền quê văn hóa... Diện mạo Huế - Thành phố Festival, trung tâm văn hóa lớn của cả nước và của thế giới đang ngày càng trở nên rõ ràng hơn, sống động hơn, với vị thế được nâng cao hơn...

Một trong những nhiệm vụ mà Bộ Chính trị yêu cầu Thừa Thiên Huế thực hiện là tập trung hoàn chỉnh hạ tầng kỹ thuật, nhất là giao thông. Từ nhiều năm trước, quyết tâm nối lại thật gần rừng núi với biển khơi đã được Thừa Thiên Huế xác quyết và rất nhanh chóng, những con đường nối liền rừng biển đã được xây đắp, 100% xã có đường nhựa đến trung tâm, đường bê tông tỏa khắp các thôn làng... Những chiếc cầu không chỉ bắc qua sông mà còn bắc qua phá Tam Giang mênh mông khiến bao người dân đi qua cầu mà cứ ngỡ trong mơ. Giao thông vẫn tiếp tục phát triển trong thời gian gần đây. Những cung đường ray song song gợi nhớ nỗi buồn ly biệt ngày xưa giờ dập dồn những cảm xúc mới của tốc độ thời hiện đại, nhanh hơn, mạnh hơn. 100 km với 9 ga lớn nhỏ trong hệ thống giao thông đường sắt qua Thừa Thiên Huế đang từng bước hiện đại hóa. Ga Huế thân thiện với bình quân 2000 lượt khách/ngày, nhưng cũng đủ sức để có lúc cao điểm đón đến 30.000 lượt học sinh, phụ huynh đến Huế như trong những ngày sĩ tử cả nước đổ về thi. Trong tương lai, Huế sẽ nằm trong cung đường sắt cao tốc Bắc - Nam, trong đó ga Lăng Cô sẽ xây mới gắn với sự phát triển của khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô. Ga Huế hiện thời sẽ được di chuyển ra khỏi nội đô, các ga hàng hóa sẽ được đầu tư ở những cái tên thân thuộc từ lâu như Văn Xá, Hương Thủy, Thừa Lưu...

Hệ thống đường thủy cũng được chú trọng phát triển bởi với Huế, đường thủy không chỉ đáp ứng nhu cầu đi lại, mà còn làm cho sôi động thêm đời sống văn hóa sông nước, là gắn với phát triển du lịch. “Đò từ Vỹ Dạ thẳng Ngã Ba Sình”, đi đò dọc Tam Giang đỗ lại các bến Cồn Tôộc, Cồn Gai, Vĩnh Tu... chao nghiêng cả mạn thuyền cái sự “con đi đò dọc mẹ liều con hư”, là cái làm nên sức hấp dẫn lạ kỳ mà ai cũng muốn trong đời một lần đi cho biết. Với chiều dài 70 km từ cửa sông Ô Lâu phía Bắc Thừa Thiên đến chân núi Vĩnh Phong phía Nam, hệ thống đầm phá Tam Giang - Cầu Hai lớn nhất Đông Nam Á đương nhiên là một vùng môi trường cực tốt cho phát triển giao thông và du lịch đường thủy. Hiện Thừa Thiên Huế đang duy trì và phát triển các tuyến thủy Tam Giang - Cầu Hai, tuyến thủy sông Hương từ cửa Thuận An đến Ngã Ba Tuần, tuyến thủy dọc sông Bồ qua các vùng cây trái làng nghề xanh mát hương thơm Hương Vân, An Lỗ, Bao La, Hạ Lang, Hương Cần, Liễu Cốc, An Thuận, Vân Cù...

Bên đầm phá mênh mang sông nước là những vịnh biển đẹp tinh khôi ngập tràn sóng gió. Ở đó, Cảng nước sâu Chân Mây như một con cá voi khổng lồ đem lại cho dân chúng nhiều điềm phúc. Cảng có độ sâu nhất nước, đã từng đón tàu khách sạn 5 sao Queen Elizabeth II với 2000 du khách. Cảng đang chuẩn bị tiếp tục xây dựng bến số 2. Trong tương lai, đây là cửa ngõ quan trọng thông ra biển Đông của cả hành lang kinh tế đông - tây của khu vực. Đó cũng chính là cánh cửa mở của kinh tế biển Thừa Thiên Huế. Nó góp phần “gắn xây dựng, phát triển Thừa Thiên Huế và đô thị Huế trong mối quan hệ hữu cơ với các tỉnh, thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và các nước thuộc Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng...” như Bộ Chính trị yêu cầu.

Một yêu cầu nhân sinh khác là xây dựng nông thôn mới, cải thiện đời sống ở vùng núi như Nam Đông, A Lưới. Chiến lược phát triển kinh tế rừng cho phát triển miền núi thật sự là hướng đúng. Với 331.782 ha diện tích rừng và đất rừng, chiếm tỷ lệ gần 70% diện tích đất tự nhiên, trồng rừng ở Thừa Thiên Huế đang giữ vai trò quan trọng trong việc phòng hộ, chống xói mòn, cân bằng sinh thái, điều tiết nguồn nước. Trong ba năm gần đây (2006 - 2008), Thừa Thiên Huế trồng thêm 13.179 ha rừng. Ngược lên vùng miền núi Nam Đông, A Lưới bây giờ, dấu vết một thời đạn bom, hóa chất của Mỹ rải thảm đã phai nhạt dần, thay vào đó là màu xanh cây lá. Mỗi năm, tỉnh thu mua và chế biến xuất khẩu khoảng 140.000 m3 gỗ dăm sang thị trường Nhật Bản và Trung Quốc. Năm 2008, giá trị xuất khẩu từ dăm gỗ ở Thừa Thiên Huế đạt 12 triệu USD... Ở Thừa Thiên Huế hiện có một nghề gọi là “nghề rừng”. Nghề rừng được xã hội hóa. Nhà nước giao đất, giao rừng cho dân quản lý, nâng cao ý thức tự giác của người dân trong việc bảo vệ và làm giàu vốn rừng. Đến nay, tỉnh đã giao  59.100 ha rừng cho khoảng 170 đơn vị và 12.000 hộ nhận chăm sóc và quản lý. Có mười xã thuộc bốn huyện Nam Đông, A Lưới, Phú Lộc, Phong Điền xây dựng mô hình nhận quản lý, chăm sóc 4.000 ha rừng tự nhiên theo cộng đồng thôn, bản và nhóm hộ. Các hộ sống ven rừng còn phát triển mạnh trồng cao-su. Riêng Nam Đông đã trồng 3.500 ha cao-su, trong đó có khoảng 1.200 ha đã cho mủ. Xã Hương Phú có 562 hộ trồng 600 ha cao-su, trong đó có hơn 200 ha trong thời kỳ khai thác, mỗi năm thu từ 150 tấn đến 200 tấn mủ tươi. Xã Hương Sơn có 214 hộ với 100% đồng bào dân tộc Cà Tu, đã trồng  trên 260 ha, trong đó diện tích khai thác hiện khoảng 100 ha. Nhiều hộ trồng cao-su cho thu nhập từ 20 đến 30 triệu đồng/năm, có hộ thu nhập 100 triệu đồng/năm...

Những con số ấy đã đẩy lùi những ấn tượng buồn thảm về những mái nhà sàn tăm tối, xua tan nỗi day dứt về cái đói ở vùng cao. A Lưới, Nam Đông bây giờ, nhà tầng mọc lên hai bên đường đánh dấu những thay đổi căn bản trên núi cao. Du khách nước ngoài đã vào ngủ say trong bản làng mà Nhâm (A Lưới) là một điểm đến lý tưởng...

Ở đồng bằng, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng trên từng mét vuông đất là điều nông dân đang hướng đến. Trung tâm Khuyến nông - lâm - ngư tỉnh vào cuộc nhân giống lúa, lạc chất lượng cao, nuôi bò, gà, lợn, hàu, ốc hương cao sản... Trường đại học Nông lâm Huế cũng vào cuộc trồng rau an toàn với toan tính thu nhập 50 triệu đồng/ha ở Hương Long. Tỉnh đang nhắm đến năm 2010 cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp 90%, đến 2020 sẽ 100%.

Với sự chuyển dịch mạnh hơn cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, ngành công nghiệp cũng đang phát triển nhanh và bền vững. Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng vừa có chuyến công tác ở Huế đánh giá: công nghiệp Thừa Thiên Huế đang vượt ngưỡng và chuyển sang giai đoạn mới, chất lượng, hiệu quả hơn. Nhiều dự án công nghiệp lớn được tiếp tục triển khai. Nhiều doanh nghiệp đã chủ động tốt trên “sân chơi” thương trường. Điển hình là Bia Huế với những cơ hội vàng, đã biết chớp lấy thời cơ đầu tư, bắt đúng mạch thị trường để có chính sách phát triển hợp lý. Chẳng hạn, như Giám đốc Nguyễn Mậu Chi phân tích: Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới suy thoái, nhiều dự án đầu tư của ngành bia trên thế giới đứng im phăng phắc, Bia Huế quyết định mở rộng công suất, quả nhiên “trúng đậm” khi có được hợp đồng đấu thầu cung cấp thiết bị với giá cực thấp, bởi nhà sản xuất chấp nhận giảm giá đến mức tối đa để cạnh tranh. Mở rộng thị trường tiêu thụ cũng được Bia Huế thực hiện khá ngoạn mục. Do hụt lượng bia dịp tết con Trâu, nhiều người chuyển “gu” sang uống bia Huế đang dồi dào và có mặt khắp nơi, dòng bia Huế chảy vào niềm vui thị trường tăng đến 25% trong năm 2009 này.

Cùng với sự hình thành các khu công nghiệp, vấn đề phát triển công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường được đặt lên hàng đầu. “Bài học Vê đan” vẫn đang rung chuông trong gió cảnh báo. KCN Phú Bài có 25 doanh nghiệp hoạt động thì chỉ vài đơn vị đầu tư xử lý nước thải. Cục trưởng Chi cục Bảo vệ Môi trường tỉnh Nguyễn Việt Hùng nói với báo giới rằng, ngoài các doanh nghiệp liên doanh nước ngoài chấp hành nghiêm các quy định môi trường, đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì khó khăn kinh tế, phần khác vì xử phạt chưa đủ mạnh nên việc vi phạm về môi trường của họ đã như căn bệnh trầm kha, cứ mãi thế thì làm sao lớn mạnh được? KCN Phú Bài đang nỗ lực khắc phục hạn chế trầm kha ấy bằng cách đầu tư xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung quy mô lớn với công suất giai đoạn 1 là 4000 m3/ngày đêm. Tỉnh cũng cho xây dựng bãi chôn lấp chất thải y tế, chất thải nguy hại tại Phú Sơn... Đó là những nỗ lực có thể ghi nhận và hy vọng, song rõ ràng vấn đề nâng cao ý thức để người dân cũng như doanh nghiệp cùng tham gia phát triển bền vững là quan trọng hơn nhiều. Thành phố trực thuộc Trung ương phải có những thị dân có tư duy xứng tầm, khát vọng xứng tầm, hành động xứng tầm...

Rời khỏi cái điểm nhìn tổng quan, bây giờ nhìn riêng năm 2009 đã thấy những tín hiệu xanh. Nền kinh tế xã hội Thừa Thiên Huế năm 2009 vừa qua, mặc dù ảnh hưởng thiên tai, lũ lụt tiếp tục ổn định và tăng trưởng, có 15/17 chỉ tiêu chủ yếu hoàn thành đạt và vượt kế hoạch. Trong đó đáng kể là lần đầu tiên, tổng thu ngân sách Nhà nước vượt trên 2.500 tỉ đồng. Mới năm 2005, phấn đấu rất mãnh liệt, Thừa Thiên Huế mới gia nhập CLB 1000 tỉ. Vậy mà chỉ vài năm sau, Thừa Thiên Huế đã tham gia CLB 2.500 tỉ, bằng chứng của một cú vươn vai đầy sức vóc.

Con đường tương lai phía trước đã mở rộng, người dân Thừa Thiên Huế đang tiến gần đến đích khát vọng về một cơ hội mới để phát triển giàu và đẹp.

Toàn cảnh Thừa Thiên Huế như đang trên một công trường lớn xây dừng Thành phố trực thuộc Trung ương. Ở đó, bên cạnh những vôi vữa ngổn ngang, vẫn đằm thắm một vóc dáng nền nã của văn hóa Huế dưới bóng mát cây xanh rười rượi.

T.A

(251/01-2010)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.