VÕ MẠNH LẬP
Quê hương của cựu chiến binh Huỳnh Hồng ở Thừa Thiên Huế, nhưng sau ngày nghỉ hưu, anh lập gia đình và định cư ở Đà Nẵng.
Tác phẩm "Trên chặng đường chiến dịch", tranh lụa của Nguyễn Thanh Châu - Ảnh: Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch
Nói là đến tuổi nghỉ hưu lại mang trong mình thương tật ¾ nhưng vốn là người xông xáo, hay nghĩ hay làm, không ngại gian khó, anh mạnh dạn đầu tư xây dựng một trang trại lớn nằm về phía Nam đèo Hải Vân, trên đất Đà Nẵng, cách kho xăng Liên Chiểu về phía Tây chưa đầy trăm mét theo đường chim bay.
Đông đến, khoảng tháng 10 Âm lịch là trời đã bắt đầu se lạnh, nhưng vẫn như thường lệ, Huỳnh Hồng vẫn có thói quen dậy sớm để mở cửa chuồng cho bò, dê, gà đi ăn. Lướt vội những công việc dự tính sẽ làm trong ngày rồi sau đó, anh phóng xe xuống một quán cà phê quen thuộc nằm bên vệ đường để tìm chút thư thái khi được nhâm nhi từng giọt cà phê nóng hổi thơm ngon.
Trong quán đã có lác đác vài người khách.
- O ơi! Cho một đen nóng nghe. - Anh gọi.
- Dạ!
Chưa ngồi ấm chỗ, anh thấy một vị khách mặc áo pilot trạc tuổi anh ngồi ở bàn kế bên hỏi với sang:
- Xin lỗi! Anh người Huế phải không?
- Tui người Huế. Rứa còn anh?
- Tui cũng Huế. Nhưng tui xa Huế quá lâu, thỉnh thoảng mới về.
- Xa mấy năm?
- Hồi 23 tuổi!
- Hồi đó làm chi mà xa Huế sớm rứa?
- Đi lính! Bị thương. Ra lính! Làm ăn kiếm sống trong Nam luôn.
Nghe đến chữ lính, Huỳnh Hồng vồ vập:
- Ồ! Lính ta à!
- Không, tôi là lính chế độ cũ, là thông dịch viên cho Reng 7 trung đoàn cơ động thuộc một sư đoàn lính gốc Phi tại Huế.
- Đánh chỗ mô mà bị thương? - Huỳnh Hồng đột ngột hỏi.
- Cầu chợ Nịu. Vào khoảng tháng 10 năm 1953. Lần đầu đi trận, ca nô tui vừa ra cầu chừng 30 mét, liền bị súng từ bên tê bờ bắn. Ca nô chìm, tôi bị thương ở đùi và được vớt lên tàu chiến.
- Ồ! Chuyện chi lạ rứa? Có đúng là 27 tháng 10 không? - Huỳnh Hồng hỏi dồn.
- Cỡ nớ! Giấy khai trình trên thương tật là hai bảy. Tui nhớ rồi!
- Rứa thì... Úi chào! Quá lạ! Quá lạ! - Huỳnh Hồng lại thốt lên. Quên cả tách cà phê cô chủ quán mang lên đã bắt đầu nguội.
Cuộc gặp gỡ tình cờ không ngờ lại khơi dậy cho cả hai những ký ức về chiến tranh của một thời trai trẻ nhưng họ lại ở hai bờ của chiến tuyến…
Giữa cuộc trò chuyện bên tách cà phê, Huỳnh Hồng biết được vài thông tin về người đối diện: Anh tên là Chế Văn Quang, ở Bao Vinh, Huế. Cha mẹ mất sớm, chỉ còn lại chú bác. Anh dạy tiếng Anh, vợ buôn bán. Anh có 3 con đã có nghề, làm ăn khá giả. Lần này, anh quay về quê hương khói cho cha mẹ, thăm hàng xóm và mong muốn tìm kế giúp bà con tí chút nhưng chưa tìm ra lối. Tự nhiên, anh cảm thấy có thiện cảm về con người này. Cuộc trò chuyện của họ ngày càng trở nên giản dị nhưng hào hứng. Quá khứ ùa về như những cuốn phim chạy chậm hiện rõ trong ký ức của hai người lính. Hồi ức về trận càn ngày 27 tháng 10 năm 1953 như hiện rõ trước mắt hai người lính. Năm mươi năm trôi đi, ngày ấy Quang ở tuổi 22, Huỳnh Hồng mới tròn 18.
Sau chiến thắng, ta diệt hai trung đội biệt kích và bọn ác ôn Lý Huề ở đồn Lai Hà. Vùng Phong Điền, Quảng Điền đã bắt đầu trở lại không khí tự do. Người dân yên tâm làm ăn không phải nơm nớp lo sợ như ngày trước. Bộ đội được dân chăm lo đùm bọc. Tiểu đội Huỳnh Hồng vỏn vẹn bốn người, đóng quân ở Trằm Nậy. Không phải vì chức vụ tiểu đội trưởng mà theo thói quen ngoài những giờ nghỉ, Huỳnh Hồng thường tha thẩn quanh vùng xem xét địch đóng quân, hướng địch có thể tràn về tấn công để vẽ ra trong đầu thế chiến đấu hợp lí nhất. Tuy bị co cụm nhưng bọn chúng ở các đồn Lai Hà, Phò Trạch, Mỹ Chánh, đâu chịu ngồi yên.
Hồi đó, địch nghe đến cái tên Thân Trọng Một - vị chỉ huy nổi tiếng của một tiểu đoàn bộ đội địa phương - đã sợ xám xanh mặt, nhưng chúng cũng quyết tâm tìm cách tiêu diệt Tiểu đoàn 231.
Rạng sáng ngày 27 tháng 10 năm 1953, tiết trời se lạnh, Huỳnh Hồng ôm khẩu tuyn vào bụng, gối chiếc chăn cũ lên đầu. Bỗng một loạt súng nổ phát ra từ trảng cát Phong Chương, Quảng Thái. Chưa kịp dụi mắt, đứng dậy Huỳnh Hồng lại nghe văng vẳng từ xa như là tiếng
Đại đội phó Lâm: “Kêu thằng Hồng dậy”. “Có” Hồng đáp lại một tiếng thật to làm cho cả nhà và 3 người lính nhà bên thức giấc. Trong lơ mơ, Hồng bần thần không biết có súng nổ, có tiếng gọi của anh Lâm hay không? Một lát sau nghe rõ hơn giọng của anh Lâm vang lên:
- Địch về làng rồi Hồng ơi!
Sau khi được giao nhiệm vụ, nhanh như cắt, Huỳnh Hồng quàng chiếc chăn xi ta màu xám qua vai, cài năm băng đạn vào lưng xách khẩu tuyn và lệnh cho anh em trong tiểu đội:
- Đi theo tui!
Ba anh em cũng nhanh nhẹn kẹp 3 khẩu mút-cơ-tông chạy theo. Tiếng súng nổ hướng đường số một, Huỳnh Hồng khẳng định trong đầu và leo lên trảng cát rộng dài từ Quảng Thái lên đến Đồng Lâm.
Trời mưa phùn, sáng sớm nhìn mặt người chưa rõ, bốn người lính nép vào lùm cây rậm đảo mắt nhìn và không thấy tên địch nào nhưng vẫn nghe tiếng rào rào như ong vỡ tổ. Huỳnh Hồng biết chắc là địch đang tới gần. Phía đằng sau là cát trắng, ở vị trí này mà nổ súng thì sẽ bị tiêu diệt. Huỳnh Hồng ra lệnh rút lui vượt trảng cát rộng và trụ lại trên các bụi cây trên cồn cát cao. Chỗ vừa rút lui đã thấy một thằng người cao to đưa ống nhòm lên quan sát, phía trái một khẩu trung liên vừa đặt xuống. Bốn chiến sĩ cùng nhả đạn vào thằng cao to rồi ào chạy vào làng Trằm Nậy. Tiếng nổ râm ran chĩa về một đích, sau đó im bặt và chúng nó chạy theo sau áp sát làng Trằm Nậy và các làng bên cạnh thành một gọng kìm.
Trong câu chuyện dài dài, Quang cười:
- Thằng cao to là quan tư Pháp. Tui làm thông dịch cho hắn.
- Răng hắn không bắn tiếp? - Huỳnh Hồng hỏi.
- Hắn thoáng thấy các anh ít, hắn ra lệnh tiến vào bắt sống.
- Hắn không sợ ông Một à?
- Bọn châu Phi biết ông Một là ai mô. Hắn được lệnh tiêu diệt Tiểu đoàn 231 đang đóng quân ở Phong, Quảng.
Bốn chiến sĩ chạy được quá nửa làng thì gặp một con đường rộng chừng sáu, bảy mét, Huỳnh Hồng ra lệnh:
- Chúng ta phải vượt nhanh qua bên kia đường!
Vừa nấp người qua thân cây dứa thì một thằng Tây cao lêu nghêu đen ngòm như than lù lù đi tới, trong tay lăm lăm khẩu súng. Anh em dí tay vào lưng Hồng, anh hất tay ra hiệu không được bắn. Thằng Tây đen vừa qua chừng mười mét, tiếp theo là một đám lính rất đông. Bọn chúng giẫm trên cát mà vẫn nghe rõ lạo xạo tiếng giày như trâu bò đi.
Địch vừa đi qua, Huỳnh Hồng đã ra lệnh bắn. Cả đám lính nằm rạp xuống, quay súng ra đằng sau nằm im không hề phản ứng. Nhân cơ hội đó bốn chiến sĩ tiếp tục chạy, tiếp tục quay lại bắn rồi rút vào các làng, vòng ra đống cát. Địch đuổi riết, bốn chiến sĩ đổi hướng chạy ngang, bò men theo những bụi cây để lùi ra đàng sau mũi tiến của chúng. Khi bò ra xa giữa trảng cát, kiểm tra quân số, bốn chiến sĩ bị lạc mất một người.
Nghe kể tới đây, Quang cười hỏi Huỳnh Hồng:
- Anh biết vì răng hắn không bắn?
- Răng bọn tui biết được?
- Các anh thoát được là nhờ thông minh. Suốt cả ngày chúng nó săn tìm các anh khắp các làng nhưng không thấy. Coi như cuộc càn không thành công, sở chỉ huy ở Huế ra lệnh rút quân về phá Tam Giang vào Huế. Cả ngày hôm ấy, các anh ẩn nấp ở mô mà như tàng hình rứa?
- Ba chúng tôi chôn người trong cát, bên cạnh những bụi rậm, không cơm, không nước mà đôi mắt và nòng súng vẫn bám theo các hành vi của địch.
- Anh biết lệnh chúng rút lui à?
- Không! Nhưng sau quan sát thấy cách di chuyển của nó tôi đoán có lẽ chúng sẽ rút.
Trời sắp chạng vạng, từ xa Huỳnh Hồng thấy địch rục rịch đi về phía chợ Nịu. Anh em chúng tôi cảm thấy người khỏe khoắn trở lại và cầm súng lần đường dò theo hướng đi của chúng. Khi đến gần chợ Nịu, ngoài phá đã xuất hiện năm tàu chiến. Nhanh trí, Huỳnh Hồng đoán chúng sẽ dồn về chợ Nịu để đi ca nô ra tàu. Lúc đó cái bụng Huỳnh Hồng sướng vô cùng vì biết cơ hội đã đến. Không biết mệt, không thấy đói, Huỳnh Hồng giục hai người đồng đội:
- Theo tui mau.
Hai lính, hai súng trường và một tiểu liên kẹp nách chạy băng qua cầu bên kia chợ Nịu thì trời gần tối. Một đoàn ca nô lần lượt rời bến. Ba anh em Hồng dồn đạn cho chiếc gần bờ nhất...
- Tôi bị loạt đạn đầu tiên - Quang nói chen.
- Rứa à, có bị chi không?
- May mắn tui thoát được làn đạn của các anh, chỉ bị thương nhẹ! Và bây giờ lại may mắn gặp được người đã tấn công bọn tui.
Nói đến đây, Quang tóe miệng cười: - Chết đi không nói mần chi, sống mới là cơ may để nhìn nhận lại mọi chuyện. - Giọng Quang bỗng trầm ngâm, ánh mắt thoáng xa xăm...
- Chừ anh biết tui là ai rồi chơ. Răng, còn muốn nói chuyện với tui không? - Quang cười ha hả.
- Thống nhất, hòa hợp rổi mà anh nói chi lạ hè, Huỳnh Hồng cũng trải lòng. Đã là người Việt thì ai cũng có lòng yêu nước, chẳng qua là do hoàn cảnh thời cuộc thôi, có điều là tui may mắn hơn anh. Đã là chiến tranh thì bên nào cũng mất mát đau thương, sức mạnh của chính nghĩa ngàn đời vẫn thắng mà thôi. Anh nói chân thành nhưng không dấu được niềm tự hào.
Câu chuyện của họ cứ thế kéo dài đến quá trưa mà vẫn không dứt. Như một đôi bạn đã quen từ lâu, họ còn hẹn gặp gỡ nhau vào một dịp khác đẹp trời tại trang trại của Huỳnh Hồng. Trên đường về, những ký ức về cuộc chiến đối mặt với Reng 7 cứ hiện rõ mồn một trong đầu Huỳnh Hồng. Anh nhớ mãi câu nói của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Chi trong buổi tổng kết trận đánh: “Đây là trận chống càn đầu tiên của Tiểu đoàn, lấy ít đánh nhiều. Diễn biến của trận đánh thông minh, linh hoạt và hiệu quả rất lớn”. Vài hôm sau, Huỳnh Hồng bất ngờ được lệnh Ban chỉ huy Tiểu đoàn cử đi dự liên hoan chiến sĩ thi đua Bắc Thừa Thiên tại thôn Thanh Xuân, xã Phong Thái (gần chiến khu Hòa Mỹ) do tỉnh Thừa Thiên tổ chức. Tại đây, anh được mời báo cáo tường tận trận đánh càn ngày 27 tháng 10 ở Quảng Thái. Sau khi nghe anh báo cáo, những tràng vỗ tay dậy lên. Các đại biểu thân mật không gọi anh là Huỳnh Hồng mà là Huỳnh Hổ.
Trước khi chia tay, chợt như nhớ ra điều gì, Quang còn hỏi với một câu:
- Đánh đấm dữ rữa chắc trước khi ra quân anh đã lên tướng rồi hè?
- Ui chà chà! Tướng tá chi, có chi sướng hơn được làm lính Cụ Hồ phải không thông dịch viên Reng 7!
V.M.L
(TCSH44SDB/03-2022)
BỬU Ý
Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.
LÊ QUANG KẾT
Ký
Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).
VŨ THU TRANG
Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.
HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
Đoản văn
Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!
LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ
BÙI KIM CHI
Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.
KIM THOA
Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
(Hàn Mạc Tử)
NGUYỄN VĂN UÔNG
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
(Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.
LÊ QUANG KẾT
Tùy bút
Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.
TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.
LÊ QUANG KẾT
Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.
HUY PHƯƠNG
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên
(Tố Hữu)
PHAN THUẬN AN
Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.
MAI KIM NGỌC
Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.
HOÀNG HUẾ
…Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…
QUẾ HƯƠNG
Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.
THU TRANG
Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.