Đừng lệ thuộc, đừng tự trói mình vào bất cứ “chủ nghĩa” và “phương pháp” nào

16:56 08/03/2008
NGUYỄN KHẮC PHÊTrong văn chương, cách gọi “chủ nghĩa” này hay “chủ nghĩa” khác đều không ổn, thậm chí có hại vì vô hình trung như thế là cách buộc nhà văn theo “một con đường” vạch sẵn mà từ hơn nửa thế kỷ trước, Hải Triều đã lên án...


Với ngành (nghề) lý luận phê bình thường được thiên hạ quan niệm là chốn cao sang dành cho các thầy, các giáo sư học vấn uyên thâm, tôi là một kẻ “ngoại đạo”; trong hệ thống “Trường Văn” thì bằng cấp cao nhất tôi đạt đến là tờ “Chứng chỉ” (nay đã mất) học viên Khoá 3 Lớp bồi dưỡng viết văn trẻ năm 1968-1969 do nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh phụ trách. Tuy vậy, trong “Trận Bút” thì có lẽ nhờ thừa hưởng và phát huy tinh thần can đảm (có người gọi là “gàn”) của các ông “Đồ Nghệ” và đội quân đi mở đường Trường Sơn tại một trong những trọng điểm ác liệt nhất thời chống Mỹ là đèo Mụ Dạ (Tây Quảng Bình), nên đến nay, sau gần 40 năm cầm bút (kể từ khi in cuốn sách đầu tay- ký sự “Vì sự sống con đường”, NXB Thanh Niên, 1968) tôi đã có 8 tiểu thuyết được xuất bản; mặt khác, qua 8 năm (1983-1991) làm Phó Tổng biên tập, rồi Tổng biên tập Tạp chí “Sông Hương” - một thời kỳ sôi nổi của “Sông Hương” và của công cuộc ĐỔI MỚI văn học nói chung - tôi cũng thấm hiểu được một số điều, nay xin được giãi bày:

1.
Thành tựu 20 năm đổi mới trong văn học là điều ai cũng nhận thấy và không thể tranh cãi. Chỉ xin được lưu ý thêm là hoạt động của báo chí - trong đó có tờ “Văn nghệ” với loạt bài tiêu biểu như “Cái đêm hôm ấy đêm gì?” (của Phùng Gia Lộc) và các tờ tạp chí địa phương như “Sông Hương”, “Cửa Việt”, “Đất Quảng”..., đã góp phần không nhỏ tạo nên diện mạo và không khí đặc biệt thời kỳ đầu “Đổi Mới”. Riêng tạp chí “Sông Hương”, chúng tôi đã mạnh mẽ ủng hộ các khuynh hướng tìm tòi sáng tạo nghệ thuật và mở rộng đề tài thể hiện ở nhiều tác phẩm, từ “Khối ru-bich” của Thanh Thảo, đến “Tổ quốc nhìn từ xa” của Nguyễn Duy và “Người đàn ông 43 tuổi nói về mình” của Trần Vàng Sao; từ các truyện ngắn đến trích tiểu thuyết “Những mảnh đời đen trắng” của Nguyễn Quang Lập, đến các truỵện ngắn, kịch, tiểu luận của Nguyễn Huy Thiệp... gây ra nhiều tranh cãi mãi về sau.

Có lẽ không cần biện minh sự “đúng-sai” các tác phẩm đó. Trong văn học nghệ thuật, sự “đúng-sai” nhiều khi phụ thuộc thời điểm, cách nhìn, có lúc tưởng là rất đen lại hoá ra trắng tinh. Dễ thấy hơn cả là hai bài thơ “Chống tham ô lãng phí” và “Lời mẹ dặn” của thi sĩ Phùng Quán, một thời bị quy là phản động, chống Đảng, nhưng đến năm 2003 đã được NXB Văn học trang trọng in lại và tác giả vừa được đề nghị truy tặng Giải thưởng Nhà nước. Còn nếu dùng thuật ngữ của “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” thì hai bài thơ đó có tính Đảng rất cao vì đã sớm vạch mặt bọn sâu mọt hại dân và đề cao tính trung thực (“Yêu ai cứ bảo là yêu / Ghét ai cứ bảo là ghét...”); có thể nói, đó là “khắc tinh” của bệnh dối trá - một tệ nạn đang đe doạ toàn xã hội, làm méo mó mọi giá trị cao đẹp mà dân tộc ta đã đổ biết bao mồ hôi và xương máu qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước mới vun đắp nên. Đó là chưa kể đến do trình độ văn hoá, đặc điểm tâm sinh lý, quan niệm về đạo đức, “gu” thẩm mỹ... - nghĩa là rất nhiều yếu tố của chủ thể tiếp nhận tác phẩm - cách đánh giá “đúng-sai” một tác phẩm khác nhau là chuyện bình thường. Hơn nữa, có những vấn đề hệ trọng, do một tập thể được gọi là tinh hoa của đất nước quyết định mà vẫn có “sai lầm chết người”, huống chi là sản phẩm của nhà văn này, nhà thơ nọ - loại người thường dễ mắc bệnh chủ quan và chỉ giỏi tưởng tượng.
Vì thế, nhìn nhận đóng góp cuả báo chí thời kỳ đầu “Đổi Mới” chính là ở chỗ nó đã khơi dậy, cổ vũ văn nghệ sĩ dám từ bỏ lối mòn, dám nói tiếng nói thật của lòng mình, kích thích sáng tạo. Có thể nói điều đó đã góp phần sinh thành nên những tác giả, tác phẩm được dư luận chú ý trong những năm về sau.

2. Chính vào thời kỳ này, tháng 4 năm 1987, tại Hội thảo “Văn xuôi những năm gần đây - Những vấn đề xã hội và sự tìm tòi sáng tạo” giữa hai Đoàn đại biểu nhà văn Việt và Liên Xô tại Mát-scơ-va, tôi đã phát biểu:
“...Tôi thiết nghĩ, những ai đã hoạt động nghệ thuật đều hiểu sự tìm tòi đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật là lẽ sống còn của mình... Vậy mà lại có người - đáng tiếc là có khi họ là người có thế lực - họ e ngại sự tìm tòi đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật, vì họ sợ như thế sẽ chệch đường, lệch hướng. Nhưng thử hỏi, trong sáng tạo nghệ thuật, ai là người chỉ rõ được con đương duy nhất dẫn đến thành tựu, như con đường tàu hoả dẫn đến ga? Con đường sáng tạo nghệ thuật mà đơn giản thẳng tắp như đường tàu thì không cần nghệ sĩ, nhà văn nữa. Từ nửa thế kỷ trước, ngay khi còn phải sống trong chế độ thuộc địa, nhà nghiên cứu Mác-xít Hải Triều đã viết trên báo “Dân tiến” (số 1, ngày 27/10/1938): “Bao giờ và ở chỗ nào cũng thế, nhà văn cần phải có tự do mới có thể sáng tạo được những công trình bất hủ. Gạch ra một con đường buộc họ phải theo là một sự điên rồ...

Thật đáng tiếc là cả một giai đoạn mấy thập kỷ trước thời kỳ “Đổi Mới”, có thể vì điều kiện lịch sử và hạn chế này nọ, chúng ta đã buộc phải theo (hoặc tự giác đi theo) “một con đường” mà người ta đã vạch sẵn! Vì vậy, cái gọi là “Đổi Mới” trong 20 năm qua, thực chất là để văn nghệ sĩ - những chủ thể sáng  tạo - được thực thi chức năng (nhiều khi như là “thiên chức”) đúng với đặc thù của nghề nghiệp. (Trước đây có người nói: “Đổi mới thực chất là quay về cái cũ”; thiết nghĩ, nói vậy không chính xác.) Tôi quan niệm trong văn chương, chủ yếu là “hay” và “dở” chứ không phải là “mới” và “cũ”. Truyện Kiều, Chí Phèo, Số Đỏ... đều là “cũ” mà hay. Xin miễn kê ra những cuốn sách mới viết, mới in mà dở.

Có nhiều cách (cũng có thể gọi là “thủ pháp” hoặc “mẹo” - ông Phan Ngọc đã có bài viết về “Mẹo tiểu thuyết”...) để đạt tới cái hay. Theo dòng “hiện thực” hay dòng “ý thức”, “huyền ảo” đều có tác phẩm hay, cái này không phủ định cái kia. Áp dụng “cách” nào là tuỳ “tạng” của mỗi nhà văn, tuỳ nội dung tác phẩm đòi một cách thể hiện, một hình thức thích hợp với nó. Viết về các nhà “ngoại cảm” đi tìm mộ liệt sĩ thì hẳn là có nhiều “huyền ảo” hơn cả tiểu thuyết Mỹ La tinh; nhưng nếu viết về đề tài các bệnh nhân tâm thần chẳng hạn thì có lẽ dùng “mẹo” dòng ý thức có lợi thế hơn v...v... Cũng cần nói thêm là trong cùng một cuốn sách, một đề tài, tác giả có thể dùng nhiều thủ pháp kết hợp. “Chử Đồng Tử” huyền thoại mà cũng rất hiện thực, “Truyện Kiều” hiện thực nghiêm ngặt nhưng vẫn có những trang “huyền ảo”; và theo thiền sư Thích Nhất Hạnh thì “Truyện Kiều” có nhiều “Phật tính” - dù tác giả là một nhà Nho tôn thờ Khổng-Mạnh. Nhiều tác phẩm nổi tiếng thế giới như “Nghệ nhân và Ma-gơ-rit-ta” của Bun-ga-cốp (Đoàn Tử Huyến dịch, vừa tái bản) hay “Mật mã Da Vinci”... đều rất khó “quy kết” thuộc dòng nào, “chủ nghĩa” nào.

Chính vì thế, trong văn chương, cách gọi “chủ nghĩa” này hay “chủ nghĩa” khác đều không ổn, thậm chí có hại vì vô hình trung như thế là cách buộc nhà văn theo “một con đường” vạch sẵn mà từ hơn nửa thế kỷ trước, Hải Triều đã lên án. Xin được nói ngay ở đây để các nhà lãnh đạo quản lý văn nghệ an tâm: từ “chủ nghĩa” đang bàn đến không đả động đến chính trị, mà chỉ là thuật ngữ văn nghệ như “chủ nghĩa hiện thực phê phán”, “chủ nghĩa hiện thực XHCN”...(có người gọi là “phương pháp”). Tôi mạnh dạn nêu vấn đề này vì gần đây, một số nhà lý luận vẫn bàn chuyện “Chủ nghĩa hiện thực XHCN” có còn thích hợp không, nên bổ sung, đổi mới những khía cạnh nào v...v... Xin được nói gọn: theo tôi, không chỉ “chủ nghĩa hiện thực XHCN”, mà bất cứ “chủ nghĩa” nào cũng không nên tôn thành ngọn cờ, thành “phương pháp” buộc các văn nghệ sĩ phải theo. Nói cách khác, trong văn chương, không có chuyện “chủ nghĩa” nào hết! Trước trang giấy trắng (hay trước màn hình vi tính) nhà văn không vướng bận gì đến các “chủ nghĩa” đã (hoặc sẽ) được đúc kết thành “giáo điều”. Như thế - nói theo ngôn ngữ của “chưởng” - nhà văn đã có được ưu thế “vô chiêu thắng hữu chiêu”. “Vô chiêu” thắng vì thực ra anh  được hoàn toàn tự do sử dụng mọi chiêu thức mà giới “võ lâm” trong và ngoài nước đã đúc kết từ trước, cũng như chiêu thức chưa một ai biết, chợt hiện đến trong tâm thế sáng tạo của anh.

Một bạn đồng nghiệp, sau khi nghe tôi nêu ý kiến này, đã nhiệt liệt hưởng ứng, nhưng rồi nửa thật nửa đùa bảo: “Nếu thế thì các nhà lý luận sẽ thất nghiệp à?” Không! Tôi nghĩ các vị chỉ không phải mất công bàn luận, đúc kết, viết bài giảng về các “chủ nghĩa”; chứ việc nhận ra tác phẩm nào hay, hay ở chỗ nào, nhất là việc phân tích nhà văn đã khéo léo vận dụng (hoặc tạo ra) thủ pháp nào, “mẹo” nào... nên tác phẩm mới hay, thì độc giả và cả người viết nữa, vẫn phải trông đợi chủ yếu ở các nhà lý luận từng trải, học vấn uyên thâm và khách quan.
Xin được nói thêm, tôi nêu vấn đề trên chính vì nhận ra bản thân mình và có lẽ nhiều bạn đồng nghiệp khác nữa, do đã quá tự ràng buộc, tuân theo “chủ nghĩa hiện thực” này nọ, vì ít có điều kiện tiếp xúc học hỏi những thành tựu văn nghệ thế giới,. cũng như nghiền ngẫm kinh nghiệm qua những tác phẩm lớn của dân tộc, nên nhược điểm dễ thấy là trên trang sách nặng về tái hiện cuộc sống thực tế cùng những vấn đề xã hội mà thiếu chất bay bổng của tưởng tượng và sáng tạo cùng sức nặng của tư tưởng. Tái hiện cuộc sống và những vấn đề xã hội, cho dù là “mũi nhọn- nóng bỏng”, cũng chỉ mới có thể chạm đến đề tài lớn, chứ chưa thể thành tác phẩm lớn như chúng ta mong đợi. Mặt khác, trong thời đại hiện nay, báo chí, truyền hình... có lợi thế và khả năng hơn hẳn văn chương trong việc phản ánh nhanh chóng, trực diện cuộc sống thực tế và các vấn đề xã hội.

Tất nhiên chúng ta còn có thể chỉ ra những nguyên nhân khác nữa đã hạn chế thành tựu của văn học trong những năm vừa qua. Trong nhiều lĩnh vực, tìm ra nguyên nhân là đã nắm chắc phần lớn sự thành công, nhưng trong văn chương thì còn phải có điều kiện chủ yếu là tài năng. Đó là của Trời cho, nên chắc chắn không thuộc nội dung hội thảo này. Có điều, tài năng luôn là của hiếm nên càng không thể để nó cùn mòn, lãng phí do những ngộ nhận và lầm lạc không đáng có trong quá trình hoạt động của mỗi cá thể sáng tạo và của cả cơ quan, Hội đoàn có trách nhiệm quản lý văn nghệ sĩ.
Những ý kiến nêu trên có điều gì sơ suất, rất mong được các bậc thức giả chỉ bảo cho.
  N.K.P

(nguồn: TCSH số 213 - 11 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.