Đừng lệ thuộc, đừng tự trói mình vào bất cứ “chủ nghĩa” và “phương pháp” nào

16:56 08/03/2008
NGUYỄN KHẮC PHÊTrong văn chương, cách gọi “chủ nghĩa” này hay “chủ nghĩa” khác đều không ổn, thậm chí có hại vì vô hình trung như thế là cách buộc nhà văn theo “một con đường” vạch sẵn mà từ hơn nửa thế kỷ trước, Hải Triều đã lên án...


Với ngành (nghề) lý luận phê bình thường được thiên hạ quan niệm là chốn cao sang dành cho các thầy, các giáo sư học vấn uyên thâm, tôi là một kẻ “ngoại đạo”; trong hệ thống “Trường Văn” thì bằng cấp cao nhất tôi đạt đến là tờ “Chứng chỉ” (nay đã mất) học viên Khoá 3 Lớp bồi dưỡng viết văn trẻ năm 1968-1969 do nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh phụ trách. Tuy vậy, trong “Trận Bút” thì có lẽ nhờ thừa hưởng và phát huy tinh thần can đảm (có người gọi là “gàn”) của các ông “Đồ Nghệ” và đội quân đi mở đường Trường Sơn tại một trong những trọng điểm ác liệt nhất thời chống Mỹ là đèo Mụ Dạ (Tây Quảng Bình), nên đến nay, sau gần 40 năm cầm bút (kể từ khi in cuốn sách đầu tay- ký sự “Vì sự sống con đường”, NXB Thanh Niên, 1968) tôi đã có 8 tiểu thuyết được xuất bản; mặt khác, qua 8 năm (1983-1991) làm Phó Tổng biên tập, rồi Tổng biên tập Tạp chí “Sông Hương” - một thời kỳ sôi nổi của “Sông Hương” và của công cuộc ĐỔI MỚI văn học nói chung - tôi cũng thấm hiểu được một số điều, nay xin được giãi bày:

1.
Thành tựu 20 năm đổi mới trong văn học là điều ai cũng nhận thấy và không thể tranh cãi. Chỉ xin được lưu ý thêm là hoạt động của báo chí - trong đó có tờ “Văn nghệ” với loạt bài tiêu biểu như “Cái đêm hôm ấy đêm gì?” (của Phùng Gia Lộc) và các tờ tạp chí địa phương như “Sông Hương”, “Cửa Việt”, “Đất Quảng”..., đã góp phần không nhỏ tạo nên diện mạo và không khí đặc biệt thời kỳ đầu “Đổi Mới”. Riêng tạp chí “Sông Hương”, chúng tôi đã mạnh mẽ ủng hộ các khuynh hướng tìm tòi sáng tạo nghệ thuật và mở rộng đề tài thể hiện ở nhiều tác phẩm, từ “Khối ru-bich” của Thanh Thảo, đến “Tổ quốc nhìn từ xa” của Nguyễn Duy và “Người đàn ông 43 tuổi nói về mình” của Trần Vàng Sao; từ các truyện ngắn đến trích tiểu thuyết “Những mảnh đời đen trắng” của Nguyễn Quang Lập, đến các truỵện ngắn, kịch, tiểu luận của Nguyễn Huy Thiệp... gây ra nhiều tranh cãi mãi về sau.

Có lẽ không cần biện minh sự “đúng-sai” các tác phẩm đó. Trong văn học nghệ thuật, sự “đúng-sai” nhiều khi phụ thuộc thời điểm, cách nhìn, có lúc tưởng là rất đen lại hoá ra trắng tinh. Dễ thấy hơn cả là hai bài thơ “Chống tham ô lãng phí” và “Lời mẹ dặn” của thi sĩ Phùng Quán, một thời bị quy là phản động, chống Đảng, nhưng đến năm 2003 đã được NXB Văn học trang trọng in lại và tác giả vừa được đề nghị truy tặng Giải thưởng Nhà nước. Còn nếu dùng thuật ngữ của “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” thì hai bài thơ đó có tính Đảng rất cao vì đã sớm vạch mặt bọn sâu mọt hại dân và đề cao tính trung thực (“Yêu ai cứ bảo là yêu / Ghét ai cứ bảo là ghét...”); có thể nói, đó là “khắc tinh” của bệnh dối trá - một tệ nạn đang đe doạ toàn xã hội, làm méo mó mọi giá trị cao đẹp mà dân tộc ta đã đổ biết bao mồ hôi và xương máu qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước mới vun đắp nên. Đó là chưa kể đến do trình độ văn hoá, đặc điểm tâm sinh lý, quan niệm về đạo đức, “gu” thẩm mỹ... - nghĩa là rất nhiều yếu tố của chủ thể tiếp nhận tác phẩm - cách đánh giá “đúng-sai” một tác phẩm khác nhau là chuyện bình thường. Hơn nữa, có những vấn đề hệ trọng, do một tập thể được gọi là tinh hoa của đất nước quyết định mà vẫn có “sai lầm chết người”, huống chi là sản phẩm của nhà văn này, nhà thơ nọ - loại người thường dễ mắc bệnh chủ quan và chỉ giỏi tưởng tượng.
Vì thế, nhìn nhận đóng góp cuả báo chí thời kỳ đầu “Đổi Mới” chính là ở chỗ nó đã khơi dậy, cổ vũ văn nghệ sĩ dám từ bỏ lối mòn, dám nói tiếng nói thật của lòng mình, kích thích sáng tạo. Có thể nói điều đó đã góp phần sinh thành nên những tác giả, tác phẩm được dư luận chú ý trong những năm về sau.

2. Chính vào thời kỳ này, tháng 4 năm 1987, tại Hội thảo “Văn xuôi những năm gần đây - Những vấn đề xã hội và sự tìm tòi sáng tạo” giữa hai Đoàn đại biểu nhà văn Việt và Liên Xô tại Mát-scơ-va, tôi đã phát biểu:
“...Tôi thiết nghĩ, những ai đã hoạt động nghệ thuật đều hiểu sự tìm tòi đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật là lẽ sống còn của mình... Vậy mà lại có người - đáng tiếc là có khi họ là người có thế lực - họ e ngại sự tìm tòi đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật, vì họ sợ như thế sẽ chệch đường, lệch hướng. Nhưng thử hỏi, trong sáng tạo nghệ thuật, ai là người chỉ rõ được con đương duy nhất dẫn đến thành tựu, như con đường tàu hoả dẫn đến ga? Con đường sáng tạo nghệ thuật mà đơn giản thẳng tắp như đường tàu thì không cần nghệ sĩ, nhà văn nữa. Từ nửa thế kỷ trước, ngay khi còn phải sống trong chế độ thuộc địa, nhà nghiên cứu Mác-xít Hải Triều đã viết trên báo “Dân tiến” (số 1, ngày 27/10/1938): “Bao giờ và ở chỗ nào cũng thế, nhà văn cần phải có tự do mới có thể sáng tạo được những công trình bất hủ. Gạch ra một con đường buộc họ phải theo là một sự điên rồ...

Thật đáng tiếc là cả một giai đoạn mấy thập kỷ trước thời kỳ “Đổi Mới”, có thể vì điều kiện lịch sử và hạn chế này nọ, chúng ta đã buộc phải theo (hoặc tự giác đi theo) “một con đường” mà người ta đã vạch sẵn! Vì vậy, cái gọi là “Đổi Mới” trong 20 năm qua, thực chất là để văn nghệ sĩ - những chủ thể sáng  tạo - được thực thi chức năng (nhiều khi như là “thiên chức”) đúng với đặc thù của nghề nghiệp. (Trước đây có người nói: “Đổi mới thực chất là quay về cái cũ”; thiết nghĩ, nói vậy không chính xác.) Tôi quan niệm trong văn chương, chủ yếu là “hay” và “dở” chứ không phải là “mới” và “cũ”. Truyện Kiều, Chí Phèo, Số Đỏ... đều là “cũ” mà hay. Xin miễn kê ra những cuốn sách mới viết, mới in mà dở.

Có nhiều cách (cũng có thể gọi là “thủ pháp” hoặc “mẹo” - ông Phan Ngọc đã có bài viết về “Mẹo tiểu thuyết”...) để đạt tới cái hay. Theo dòng “hiện thực” hay dòng “ý thức”, “huyền ảo” đều có tác phẩm hay, cái này không phủ định cái kia. Áp dụng “cách” nào là tuỳ “tạng” của mỗi nhà văn, tuỳ nội dung tác phẩm đòi một cách thể hiện, một hình thức thích hợp với nó. Viết về các nhà “ngoại cảm” đi tìm mộ liệt sĩ thì hẳn là có nhiều “huyền ảo” hơn cả tiểu thuyết Mỹ La tinh; nhưng nếu viết về đề tài các bệnh nhân tâm thần chẳng hạn thì có lẽ dùng “mẹo” dòng ý thức có lợi thế hơn v...v... Cũng cần nói thêm là trong cùng một cuốn sách, một đề tài, tác giả có thể dùng nhiều thủ pháp kết hợp. “Chử Đồng Tử” huyền thoại mà cũng rất hiện thực, “Truyện Kiều” hiện thực nghiêm ngặt nhưng vẫn có những trang “huyền ảo”; và theo thiền sư Thích Nhất Hạnh thì “Truyện Kiều” có nhiều “Phật tính” - dù tác giả là một nhà Nho tôn thờ Khổng-Mạnh. Nhiều tác phẩm nổi tiếng thế giới như “Nghệ nhân và Ma-gơ-rit-ta” của Bun-ga-cốp (Đoàn Tử Huyến dịch, vừa tái bản) hay “Mật mã Da Vinci”... đều rất khó “quy kết” thuộc dòng nào, “chủ nghĩa” nào.

Chính vì thế, trong văn chương, cách gọi “chủ nghĩa” này hay “chủ nghĩa” khác đều không ổn, thậm chí có hại vì vô hình trung như thế là cách buộc nhà văn theo “một con đường” vạch sẵn mà từ hơn nửa thế kỷ trước, Hải Triều đã lên án. Xin được nói ngay ở đây để các nhà lãnh đạo quản lý văn nghệ an tâm: từ “chủ nghĩa” đang bàn đến không đả động đến chính trị, mà chỉ là thuật ngữ văn nghệ như “chủ nghĩa hiện thực phê phán”, “chủ nghĩa hiện thực XHCN”...(có người gọi là “phương pháp”). Tôi mạnh dạn nêu vấn đề này vì gần đây, một số nhà lý luận vẫn bàn chuyện “Chủ nghĩa hiện thực XHCN” có còn thích hợp không, nên bổ sung, đổi mới những khía cạnh nào v...v... Xin được nói gọn: theo tôi, không chỉ “chủ nghĩa hiện thực XHCN”, mà bất cứ “chủ nghĩa” nào cũng không nên tôn thành ngọn cờ, thành “phương pháp” buộc các văn nghệ sĩ phải theo. Nói cách khác, trong văn chương, không có chuyện “chủ nghĩa” nào hết! Trước trang giấy trắng (hay trước màn hình vi tính) nhà văn không vướng bận gì đến các “chủ nghĩa” đã (hoặc sẽ) được đúc kết thành “giáo điều”. Như thế - nói theo ngôn ngữ của “chưởng” - nhà văn đã có được ưu thế “vô chiêu thắng hữu chiêu”. “Vô chiêu” thắng vì thực ra anh  được hoàn toàn tự do sử dụng mọi chiêu thức mà giới “võ lâm” trong và ngoài nước đã đúc kết từ trước, cũng như chiêu thức chưa một ai biết, chợt hiện đến trong tâm thế sáng tạo của anh.

Một bạn đồng nghiệp, sau khi nghe tôi nêu ý kiến này, đã nhiệt liệt hưởng ứng, nhưng rồi nửa thật nửa đùa bảo: “Nếu thế thì các nhà lý luận sẽ thất nghiệp à?” Không! Tôi nghĩ các vị chỉ không phải mất công bàn luận, đúc kết, viết bài giảng về các “chủ nghĩa”; chứ việc nhận ra tác phẩm nào hay, hay ở chỗ nào, nhất là việc phân tích nhà văn đã khéo léo vận dụng (hoặc tạo ra) thủ pháp nào, “mẹo” nào... nên tác phẩm mới hay, thì độc giả và cả người viết nữa, vẫn phải trông đợi chủ yếu ở các nhà lý luận từng trải, học vấn uyên thâm và khách quan.
Xin được nói thêm, tôi nêu vấn đề trên chính vì nhận ra bản thân mình và có lẽ nhiều bạn đồng nghiệp khác nữa, do đã quá tự ràng buộc, tuân theo “chủ nghĩa hiện thực” này nọ, vì ít có điều kiện tiếp xúc học hỏi những thành tựu văn nghệ thế giới,. cũng như nghiền ngẫm kinh nghiệm qua những tác phẩm lớn của dân tộc, nên nhược điểm dễ thấy là trên trang sách nặng về tái hiện cuộc sống thực tế cùng những vấn đề xã hội mà thiếu chất bay bổng của tưởng tượng và sáng tạo cùng sức nặng của tư tưởng. Tái hiện cuộc sống và những vấn đề xã hội, cho dù là “mũi nhọn- nóng bỏng”, cũng chỉ mới có thể chạm đến đề tài lớn, chứ chưa thể thành tác phẩm lớn như chúng ta mong đợi. Mặt khác, trong thời đại hiện nay, báo chí, truyền hình... có lợi thế và khả năng hơn hẳn văn chương trong việc phản ánh nhanh chóng, trực diện cuộc sống thực tế và các vấn đề xã hội.

Tất nhiên chúng ta còn có thể chỉ ra những nguyên nhân khác nữa đã hạn chế thành tựu của văn học trong những năm vừa qua. Trong nhiều lĩnh vực, tìm ra nguyên nhân là đã nắm chắc phần lớn sự thành công, nhưng trong văn chương thì còn phải có điều kiện chủ yếu là tài năng. Đó là của Trời cho, nên chắc chắn không thuộc nội dung hội thảo này. Có điều, tài năng luôn là của hiếm nên càng không thể để nó cùn mòn, lãng phí do những ngộ nhận và lầm lạc không đáng có trong quá trình hoạt động của mỗi cá thể sáng tạo và của cả cơ quan, Hội đoàn có trách nhiệm quản lý văn nghệ sĩ.
Những ý kiến nêu trên có điều gì sơ suất, rất mong được các bậc thức giả chỉ bảo cho.
  N.K.P

(nguồn: TCSH số 213 - 11 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRIỆU SƠN

    Bài này nhằm trao đổi với tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy về những bất cập của nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay nhân đọc bài “Những bất cập và thái quá trong nghiên cứu văn học hiện nay” của tác giả trên Sông Hương, 294/08-13.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH

    Được Bakhtin đề xuất trong công trình nghiên cứu về sáng tác của Frăngxoa Rabơle, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực nghịch dị (grotesque realism) là sự định danh ước lệ cho một kiểu hình tượng đặc thù (hay phương pháp xây dựng hình tượng đặc thù) của nền văn hóa trào tiếu dân gian, kiểu hình tượng nghịch dị.

  • LTS: Phạm Phú Uyên Châu, bút danh Meggie Phạm, sinh năm 1991, hội viên trẻ nhất của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, tác giả của bộ truyện dài liên hoàn do Nxb. Trẻ ấn hành: Hoàng tử và em (2011, tái bản 2011), Giám đốc và em (2011, tái bản 2012), Chàng và em (2012, tái bản 2012), Người xa lạ và em (2012) và Tôi và em (đang in).

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

    Trong Điều kiện hậu hiện đại, Jean-Francois Lyotard cho rằng: “Bởi vì người ta không thể biết điều gì xảy ra cho tri thức, tức là sự phát triển và truyền bá nó hiện nay đang gặp phải những vấn đề gì, nếu không biết gì về xã hội trong đó nó diễn ra.

  • ĐANIEN GRANIN

    Năm ngoái, một tai họa xảy ra với tôi. Tôi đi trên đường phố, bị trượt chân và ngã xuống... Ngã thật thảm hại: mặt áp xuống, mũi toạc ra, tay bị tréo lên vai. Lúc đó khoảng bảy giờ chiều, ở trung tâm thành phố, trên đại lộ Kirov, cách ngôi nhà ở không xa.

  • PHẠM QUANG TRUNG

    Bàn về hiệu quả của lý luận trong quan hệ với sáng tác, cần phân tách xu hướng lý luận dành cho tìm hiểu sáng tác của nhà văn (hướng nhiều hơn tới người nghiên cứu) với xu hướng lý luận dành cho sáng tác của nhà văn (hướng nhiều hơn tới người sáng tạo).

  • HÀ VĂN LƯỠNG  

    Trong thể loại tự sự, người trần thuật giữ một vai trò quan trọng, góp phần làm nên giá trị nghệ thuật tự sự của tác phẩm văn học.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    Đời sống văn học không thể thiếu phê bình, nghiên cứu. Nếu xem “tác phẩm văn học như là quá trình”(1) thì phê bình và nghiên cứu là một khâu quan trọng trong chuỗi quá trình đó.

  • PHAN TUẤN ANH

    1. Nguyên tắc thẩm mỹ facebook và lối đọc status - entry
    Những tác phẩm của Đặng Thân như Ma net mà đặc biệt là 3339 [những mảnh hồn trần] từ khi ra đời đến nay đã trở thành những “cú sốc văn hóa” mini trong đời sống văn học Việt Nam.

  • BÙI BÍCH HẠNH

    Cất tiếng như một định mệnh của quyền năng nghệ thuật giữa phố thị thơ miền Nam những năm 50 - 60 thế kỉ XX, người thơ Thanh Tâm Tuyền, bằng tuyên ngôn nghệ thuật khởi từ ca dao sang tự do, đã tham dự vào thi đàn vốn nhiều biến động với tư cách một hữu thể mưu cầu phục sinh.

  • NGUYỄN QUANG HUY

    Phạm Thái (1777 - 1813) là một khuôn mặt khá đặc biệt trong thơ văn Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Đặc biệt trong thời đại ông sinh ra và ứng xử với nó; đặc biệt trong cách thể hiện thế giới nghệ thuật nhiều cá tính, nhiều gương mặt; đặc biệt trong vũ trụ mộng trước cuộc đời; đặc biệt trong cách thế tồn tại tài hoa mệnh bạc của ông; đặc biệt hơn là thơ văn của ông chưa được lưu ý phân tích ở chiều sâu tâm lí, chiều sâu thẩm mĩ.

  • THÁI DOÃN HIỂU

    Thời kỳ còn sống lang thang Kazan, nhà văn trẻ tài năng M. Gorky luôn làm phiền cho trật tự của chính quyền, cảnh sát Nga Hoàng tống lao ông. Trong tù, ông vẫn viết truyện, tuồn ra ngoài in đều đều trên các mặt báo.

  • INRASARA 

    1.
    Ch. Fredriksson trả lời cuộc phỏng vấn, cho rằng: “Ý tưởng dường như có tính tiên quyết, xem người nghệ sĩ làm gì và làm như thế nào với tác phẩm của mình, để làm sao cho tác phẩm ấy có hiệu quả nhất khi đến với công chúng.

  • NGUYỄN BÀN 

    Hồi còn học trung học, khi đọc Truyện Kiều, chúng tôi đinh ninh rằng Thúy Kiều gặp Kim Trọng lúc tuổi “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”, nghĩa là khoảng 15, 16 tuổi. Nay đọc cuốn Tìm hiểu Truyện Kiều của tác giả Lê Quế (Nxb. Nghệ An, 2004) thì thấy Thúy Kiều gặp Kim Trọng lúc 22 tuổi.

  • PHẠM PHÚ PHONG 

    Nguyễn Hữu Sơn là nhà nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, là phó giáo sư, Tiến sĩ, Phó Viện trưởng Viện Văn học và Phó Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu Văn học.

  • LUÂN NGUYỄN

    Trần Đức Thảo, với người Việt, hiển nhiên là một trí tuệ hiếm có. Trong tín niệm của tôi, ông còn là một trí thức chân chính. Một trí thức dân tộc.

  • MAI VĂN HOAN

    Trong những tháng ngày ở Châu Thai chờ đợi Từ Hải, sau khi diễn tả nỗi nhớ của Kiều đối với quê nhà, cha mẹ, Nguyễn Du viết: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng/ Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN

    Vua Minh Mạng (tên hoàng tử là Nguyễn Phúc Đảm) lên làm vua năm Canh Thìn (1820). Ông là một vị vua có tri thức uyên thâm, biết nhìn xa thấy rộng.

  • VĂN NHÂN

    Trong bài thơ viết về dòng sông Hương, Nguyễn Trọng Tạo có bốn câu khá hay: Con sông đám cưới Huyền Trân/ Bỏ quên giải lụa phù vân trên nguồn/ Hèn chi thơm thảo nỗi buồn/ Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ (Con sông huyền thoại).

  • THÁI KIM LAN  
    (Đôi điều về Con Đường Mẹ Đi)

    Trước tiên, khi thử nhìn lại con đường của Mẹ - Đạo Mẫu, tôi lại muốn đánh dấu chéo gạch bỏ những khái niệm “Đạo Mẫu”, Tiên Thánh Liễu Hạnh, Thánh Cô và một loạt những nhân vật được tôn sùng cho sức mạnh, thế lực hàng đầu của nữ giới Việt, thường được hóa thánh, sùng thượng một thời.