Phật giáo Huế có được những cơ sở thờ tự, chùa chiền khang trang, cùng sự tồn tại của nhiều thiền phái, với những tăng sĩ có trình độ cao, cư sĩ tín đồ đông đảo. Sự phát triển và hưng thịnh của Phật giáo Huế thời kỳ này một phần nhờ vào công lao đóng góp lớn của các ông hoàng, bà chúa cùng con cháu của họ. Một trong những ông hoàng có công đức hộ trì Phật pháp và để lại nhiều dấu ấn quan trọng đối với Phật giáo Huế vào những năm đầu của thế kỷ XIX là đức ông Phước Long Công Tôn Thất Thăng 福隆公尊室昇 [tức Nguyễn Phúc Thăng1 阮福昇]. Trong bài viết này, chúng tôi xin đề cập đến chiếc đại hồng chung đang được bảo quản ở chùa Phước Hưng và những trợ lực của đức ông Phước Long Công đối với Phật giáo đất Thần kinh.
1. Cuộc đời và hành trạng
Ông hoàng Tôn Thất Thăng là con trai thứ 18 của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, mẹ là bà Hữu cung tần Tống Thị Quyên. Ông sinh ngày 17 tháng 11 năm Nhâm Ngọ [tức ngày 21/12/1762]. Những năm tháng tuổi trẻ của ông gắn liền với biết bao thăng trầm, biến động của vương triều nhà Nguyễn.
Không còn phải bôn tẩu gian nan, năm 1799, Nguyễn Vương giao cho Quốc thúc Tôn Thất Thăng nhiệm vụ cai quản vệ Cường uy và vệ Tín uy. Sau đó, vua Gia Long ban ấn cho Quốc thúc Tôn Thất Thăng (Ấn khắc chữ triện “Quốc thúc chi ấn”)2. Đồng thời, nhà vua lấy Quốc thúc Tôn Thất Thăng giữ công việc ở Phủ Tôn Nhân để chăm lo gia huấn, trông coi người trong họ, làm phổ hệ Tôn Thất và quản trị quốc tộc đi vào nề nếp.
Trong quá trình thừa hành chức phận của mình ở Phủ Tôn Nhân, Tôn Thất Thăng đã tiến hành sửa sang phả điệp tông thất, kê khai con cháu trong phả hệ và tạo điều kiện thuận lợi cho dòng dõi Tôn Thất được ăn học đàng hoàng.
Vua Gia Long còn tin tưởng giao cho Quốc thúc Tôn Thất Thăng giám sát và quản lý việc xây dựng lại 17 lăng mộ của các chúa và phi tần. Sách Đại Nam thực lục có chép: “Năm Gia Long thứ 7 [1808], sửa sang các tôn lăng. Sai Quốc thúc Tôn Thất Thăng, Chưởng quân Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Nhân, Nguyễn Đức Xuyên, Lê Chất, Đô thống chế Nguyễn Văn Khiêm, Trần Văn Năng chia nhau trông coi công việc. Vua thường đến xem. Thưởng cho các quân 8.000 quan tiền”3. Công việc xây dựng lăng mộ hoàn tất, vào dịp lễ thu hưởng, ngày kỵ thì vua Gia Long thường sai Tôn Thất Thăng khâm mạng làm lễ cúng tế.
Làm việc với cường độ cao suốt một thời gian dài, năm 1816, Quốc thúc Tôn Thất Thăng bị bệnh, nhà vua ban cho 500 quan tiền để an dưỡng. Ông cố gắng vào cung để tạ ơn, vua Gia Long mời lên điện khuyên nhủ4. Trong năm này, triều đình định ban thứ lễ triều hạ. Chỗ bái lạy của hoàng thái tử, hoàng tử, hoàng tôn và các công tước đều ở trên điện Thái Hòa. Hoàng thái tử ở đầu hàng tả ban, còn đầu hữu ban là Tôn Thất Thăng5. Điều này cho thấy, Tôn Thất Thăng đương thời được vua Gia Long, giới hoàng tộc và quan lại triều đình rất trọng vọng.
Niên hiệu Gia Long năm thứ 16 [1817], ông hoàng Tôn Thất Thăng được nhà vua phong tước Phước Long Công, ban sách phong, ấn bạc và ấn quan phòng6. Dù về mặt thân tộc Phước Long Công giữ vai chú của vua Gia Long nhưng ông luôn giữ mối quan hệ quân thần (vua tôi). Vì vậy, ông được nhà vua rất yêu mến và kính trọng.
![]() |
Cổng phủ Phước Long Công ở làng Công Lương |
Đức ông Phước Long Công bị mắc bệnh và càng ngày càng nặng, mặc dù vua Gia Long đã lệnh cho quan ngự y giỏi nhất đến để chữa trị, nhưng vẫn không qua khỏi. Ông qua đời vào ngày 8 tháng 6 năm Kỷ Mão (tức ngày 29/7/1819), hưởng thọ 58 tuổi. Hay tin Phước Long Công mất, vua Gia Long vô cùng thương xót và ban thụy là Hòa Tĩnh. Viên tẩm của đức ông Phước Long Công được triều đình xây dựng ở núi Bích Sơn thuộc làng An Ninh, huyện Hương Trà (nay thuộc phường Hương Hồ, thành phố Huế), gần lăng mộ mẫu thân của ngài. Sách Đại Nam liệt truyện có đoạn chép: “Thăng là chỗ rất thân trong họ nhà vua, được yêu quý không ai bằng. Vua thường gọi là Quốc thúc mà không gọi tên. Mỗi khi Thăng vào chầu riêng, vua bèn đứng dậy đón mời ngồi lên giường ngự, Thăng cố từ chối mà rằng: “Trời không có hai mặt trời, thần là Thăng đâu dám ngồi ở đấy”. Vua sai trải chiếu xuống đất cùng ngồi. Lúc Thăng ra về, vua đứng dậy tiễn. Vua đối Thăng, lễ đãi càng hậu, Thăng giữ lễ càng kính cẩn, hơn 20 năm vẫn như một ngày. Quận công Nguyễn Văn Nhân và Lê Văn Duyệt thường nói với nhau rằng: “Cái ân hoàng thượng ta thân với người thân, cái đức Quốc thúc khiêm thật là khiêm xưa nay đều ít có”. Đến bấy giờ Thăng mất, vua thương xót không thôi, cho dùng tang lễ thân vương theo chế độ, nghỉ chầu 5 ngày, đặt tên thụy là Hòa Tĩnh, chi tiền cho sắm sửa việc tang, sai hoàng tử Định Viễn công Bính đến dự tế. Vua lại bảo bộ Lễ rằng: “Quốc thúc kể ở nhà là bậc kỳ đức, kể ở nước là hạng nguyên thần, nay không may mất đi, con còn bé, đến khi lớn tuổi sẽ bàn cho tập ấm để nối mãi việc tế tự”7.
Đức ông Phước Long Công có 4 người con trai gồm Tôn Thất Thạnh (1806 - 1818), Tôn Thất Vĩnh (1811 - 1859), Tôn Thất Tường (1814 - 1877), Tôn Thất Thùy (1815 - 1885). Ngoài người con trưởng là Tôn Thất Thạnh do mất sớm nên không được ban tước vị, còn các vị công tử khác đã trưởng thành đều được triều đình ban cấp lương bổng và chức tước hậu hĩnh. Cụ thể, con trai thứ hai là công tử Tôn Thất Vĩnh được vua Minh Mạng tập phong tước Phước Long hầu (1826), cho sách phong và ấn bạc cùng triều phục hàm nhị phẩm, thứ bậc ở hạng dưới hàm nhị phẩm, mỗi năm cấp bổng 600 quan tiền, 500 phương gạo8. Còn công tử Tôn Thất Tường và Tôn Thất Thùy đều được ân phong làm Trợ Quốc lang (1830), vị thứ trong ban ở dưới hàng lục phẩm9.
![]() |
Sơ đồ phong tước tại phủ Phước Long Công |
Đức ông Phước Long Công cùng con cháu khai mở ra Phòng 18, Hệ 9 Tiền biên (con cháu của các chúa Nguyễn). Niên hiệu Minh Mạng năm thứ 5 [1824], triều đình ban đặc ân cấp cho phòng Phước Long Công “hơn 40 mẫu tự điền (Nguyên là ruộng đất tư ở hai làng Công Lương và Triều Thủy), tha thuế cho mãi mãi, khiến con là Vĩnh coi giữ việc thờ”10.
2. Xây chùa, tạo tượng và đúc đại hồng chung
Năm Bính Tý (1816), Quốc thúc Tôn Thất Thăng quyết định rời xa kinh kỳ phồn hoa diễm lệ để quay trở về làng Công Lương bên dòng sông Như Ý (nay là phường Thủy Vân, thành phố Huế) dựng phủ đệ, đặt tên vườn là Lạng Uyển để vui thú điền viên, một lòng hướng Phật.
![]() |
Toàn cảnh phủ Phước Long Công |
Nhìn ra được chốn linh địa, sau khi kiến tạo xong phủ đệ thì việc đầu tiên đức ông Tôn Thất Thăng nghĩ đến đó là tiến hành trùng hưng lại ngôi chùa của làng Công Lương đã bị hư hỏng, xuống cấp do tác động của thời gian và chiến sự loạn lạc. Ngoài ra, đức ông đã cùng vợ là bà Nguyễn Thị Ý cho tạo tượng Phật, đúc đại hồng chung để thay thế các pháp tượng, pháp khí của chùa đã bị mất mát trong cơn biến loạn. Ngày lạc thành ngôi chùa mới, đức ông Tôn Thất Thăng đặt tên là chùa Phước Hưng, thiện nam tín nữ gần xa đã đến chùa rất đông để chiêm bái. Sau đó, Quốc thúc Tôn Thất Thăng quyết định xuất gia, thọ giới Sa-di, do đại sư Tánh Toàn Nhất Thể11 thế độ, cho pháp danh là Hải Mâu, tự là Phước Hạo. Bà Nguyễn Thị Ý cũng xin quy y với đại sư Tánh Toàn Nhất Thể, thọ giới Sa-di-ni và được pháp danh là Hải Giác (cùng hàng chữ Hải với chồng), tự là Toàn Hảo. Từ đó, hai ông bà chăm lo tu học, giữ giới hạnh tinh nghiêm. Đặc biệt, Quốc thúc Tôn Thất Thăng còn cung thỉnh thầy của mình là Hòa thượng Tánh Toàn Nhất Thể về làm trú trì chùa Phước Hưng ở làng Công Lương để ngày ngày nghe tiếng tụng kinh niệm Phật cho khuây đi niềm tục lụy.
Cuốn gia phả do cụ Tôn Thất Đàn12 soạn vào năm Bảo Đại thứ 7 [1932] có chép về sự kiện này như sau: “Năm Bính Tý kính xây phủ đệ, mười dặm xóm làng dân chúng kéo về, sùng tu tự viện, một năm giảm thuế khóa để vỗ về những kẻ có quân công (tất cả mọi việc đều tiến hành ở xã Công Lương). Tạo tượng Phật và đúc đại hồng chung, sắm mũ áo và tôn thờ sấm điển. Lúc xây dựng xong và chạm trên biển ngạch hai chữ “Phước Hưng”13. Thời đó, chùa Phước Hưng đã trở thành nơi lui tới thường xuyên của các bậc cao tăng thạc đức.
Đến triều vua Minh Mạng, Hòa thượng Tánh Toàn Nhất Thể đã chọn một cuộc đất trên núi Tiên Tĩnh, làng Dương Xuân (nay thuộc phường Thủy Xuân, thành phố Huế) lập ra chùa Bảo Lâm và tu ở đó cho đến những ngày cuối đời. Từ đây, chùa Phước Hưng được giao lại cho phủ Phước Long Công quản lý và tổ chức các nghi lễ Phật giáo. Và phủ Phước Long Công có mối liên hệ mật thiết với chùa Bảo Lâm. Hầu hết, các con cháu của đức ông Phước Long Công đều quy y tại chùa Bảo Lâm. Vì vậy, họ đã đóng góp nhiều tịnh tài để trùng tu tôn tạo chùa và khắc in mộc bản kinh Phật cúng dường cho chùa Bảo Lâm. Điển hình vào năm Minh Mạng thứ 6 [1925], công tử Tôn Thất Vĩnh, Tôn Thất Tường đã phát tâm trợ khắc bản Tỳ ni nhật dụng thiết yếu để cầu nguyện cho cha là đức ông Phước Long Công14.
Sau khi triều Nguyễn cáo chung vào năm 1945, con cháu của các ông hoàng, bà chúa không còn được cấp lương bổng và phải vất vả bươn chải mưu sinh; và hậu duệ của đức ông Phước Long Công cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ. Từ đó, chùa Phước Hưng ít được quan tâm tu bổ và chỉ đóng vai trò là một ngôi chùa làng. Trải qua nhiều biến thiên của thời cuộc và thời tiết khắc nghiệt, chùa đã bị hư hỏng nặng, nhiều hạng mục của ngôi nhà rường xuống cấp nghiêm trọng, có thể sụp đổ vào bất cứ lúc nào.
Với tinh thần phát huy ngôi cổ tự để tưởng nhớ thâm ân, ngưỡng vọng công hạnh của các vị khai sơn và trùng kiến, Thượng tọa Thích Đạo Huệ15 sau khi đảm nhiệm chức trú trì chùa Phước Hưng vào năm 2008 đã không quản khó khăn trùng hưng lại ngôi cổ tự ngày nào, trở thành chốn già lam uy nghiêm. Chùa hiện tọa lạc tại đường Nguyễn Hạnh (thuộc Tổ dân phố Công Lương, phường Thủy Vân, thành phố Huế), nằm cách phủ thờ Phước Long Công một đoạn không xa. Chùa Phước Hưng quay về hướng Tây Nam, gồm có các hạng mục kiến trúc chính như: Tam quan, chánh điện, nhà hậu, nhà Tăng, trai đường…
![]() |
Toàn cảnh chùa Phước Hưng |
Ngôi chánh điện có kiến trúc theo mô hình trùng thiềm điệp ốc, ba gian hai chái, kiểu kiến trúc truyền thống của chùa Huế. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Ở gian giữa, có ba án thờ với từng án trong cao ngoài thấp. Án cao nhất thờ Tam Thế Phật gồm: Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc. Dưới hàng Tam Thế Phật là tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni hai tay quyết ấn tam muội, ngự trên tòa sen. Hàng dưới cùng là án kinh, chuông mõ. Ở hai gian tả hữu hai bên có án thờ tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát và Quán Thế Âm Bồ Tát. Tại hậu tổ chùa Phước Hưng hiện đang thờ long vị của đức ông Phước Long Công Tôn Thất Thăng với nội dung: “Phụng vị Hoàng thúc Phước Long công ứng pháp Sa-di pháp danh Hải Mâu, tự Phước Hạo, thụy Viên Giác kim tọa - 奉為皇菽福隆公應法沙彌法名海眸字福昊諡圓覺金座”. Hai bên là 2 án thờ di ảnh của hương linh, các vị đạo hữu có công đức với chùa và 5 bài vị của các họ khai khẩn làng Công Lương là họ Nguyễn Hữu, Nguyễn, Trương, Lê, Hồ. Qua đây cho thấy, do những công lao và đóng góp to lớn của đức ông Phước Long Công đối với làng Công Lương nói chung và chùa Phước Hưng nói riêng nên mới được thờ phụng một cách trang trọng phía sau hậu tổ của chùa.
![]() |
Long vị của đức ông Phước Long Công thờ tại hậu tổ chùa Phước Hưng |
Ngày nay, khi đến chánh điện chùa Phước Hưng, khách thập phương có thể chiêm ngưỡng chiếc đại hồng chung do đức ông Phước Long Công Tôn Thất Thăng phát tâm chú tạo vào niên hiệu Gia Long năm thứ 16 [1817]. Quả chuông này được xem là một tác phẩm nghệ thuật trang trí tiêu biểu, thể hiện sự tinh xảo trong kỹ thuật đúc đồng của các nghệ nhân tài hoa dưới triều Nguyễn.
Toàn bộ chuông chùa Phước Hưng cao 118cm, đường kính thân chuông 67cm và đường kính miệng chuông 80cm. Chuông có hình dáng cân đối, hoa văn và những motif trên thân chuông được chạm trổ tinh xảo, sắc nét. Nếu chia theo bố cục ngang, đại hồng chung được chia thành ba phần: Quai chuông, thân chuông và miệng chuông. Phần quai chuông cao 24cm, được tạo hình bồ lao có hai đầu, với hình dáng chắc khỏe, uy nghi. Phần thân nối với nhau ở giữa, tạo thành một vòng cung tròn. Đầu bồ lao hướng lên, mũi dẹt, sống mũi dài, miệng ngậm hạt châu, răng nanh dài, đầu răng tròn. Mắt nhỏ, sừng ngắn chia làm hai nhánh ngay từ gốc. Quanh hàm có các bờm ngắn, râu dài thẳng nối từ mũi qua má đến khuỷu chân, đầu cuối râu cuốn lại thành khối xoắn ốc. Phần nối giữa đầu và thân có các trang trí như các cụm sóng nước. Thân bồ lao được bao phủ bởi các vảy tròn như vảy cá, dọc theo lưng có các vây theo kích thước từ nhỏ đến lớn, đều đặn hướng lên trên. Phần nối giữa hai thân có một khối hình búp sen cao với ba tầng cánh được tạo hình rõ ràng, tỉ mỉ, cánh hoa hơi khum xếp xen kẽ nhau. Chân bồ lao tạo khối hơi dẹt, nhỏ, khuỷu chân hơi chúc xuống, ở cạnh chân phía trên có các vây nhọn, trên chân có các vảy nhỏ. Chân bồ lao có bốn móng, dài và nhọn, độ tách móng rõ ràng, cùng với phần ức bám vào chuông.
![]() |
Quai chuông chùa Phước Hưng |
Phần vai chuông chia làm hai hàng, hàng thứ nhất không có trang trí, hàng thứ hai có một đường viền trang trí hình lá bồ đề chạy quanh chuông, giữa có ba đường gân lá. Phần thân chuông chia làm 5 hàng, hàng thứ nhất và hàng thứ ba chia làm bốn mặt, các mặt cách nhau bởi ba đường gờ dọc. Trên thân chuông có khắc một bài minh văn bằng chữ Hán.
![]() |
Minh văn chữ Hán khắc trên chuông chùa Phước Hưng |
Bốn núm đánh được nối liền nhau bằng gờ nổi, bên trái và phải của núm có trang trí sáu dải mây hình mũi mác, mỗi bên ba dải. Một trong những nét đặc trưng nổi bật mà ít chuông có được là hình đúc nổi biểu tượng bát bửu, tám quẻ bát quái, lưỡng long triều nhật cách đều chạy quanh thân chuông. Trong đó ở giữa tám vật quý này đều có một dải là quấn ngang ở giữa và hai đầu uốn lượn. Đây là một cách thức trang trí ước lệ rất cổ điển được duy trì ở các triều đại trước trên các chất liệu khác nhau như gỗ, sành sứ, lụa. Miệng chuông loe, uốn cong, có gờ gấp ở sát viền miệng và trang trí họa tiết tam sơn, thủy ba uốn lượn đều đặn theo nhịp.
![]() |
Họa tiết trang trí trên thân chuông chùa Phước Hưng |
Có thể nói, đức ông Phước Long Công là một trong những nhân vật có vai trò và công lao lớn trong quá trình dựng xây vương triều Nguyễn vào thời kỳ đầu. Và với Phật giáo Huế, đức ông cũng đã để lại một số dấu ấn quan trọng góp phần làm phong phú thêm cho đời sống văn hóa và lịch sử Phật giáo của địa phương. Bởi vậy, những dấu ấn của đức ông Phước Long Công xứng đáng được vinh danh và trân trọng. Riêng về chiếc đại hồng chung đang được lưu giữ ở chùa Phước Hưng, đây là một tác phẩm mỹ thuật điêu khắc, hội họa và kỹ nghệ đúc đồng đặc sắc dưới thời Nguyễn. Từ bao đời nay, tiếng chuông chùa Phước Hưng thanh thoát, vang vọng trong mỗi sớm hôm giúp thức tỉnh lòng người, xua tan miền tục lụy đã trở thành thanh âm gần gũi, thân thương trong tâm thức người dân phường Thủy Vân nói chung và làng Công Lương nói riêng.
T.V.D
(TCSH431/01-2024)
------------------------
1 Kể từ ngày 28/5/1822, vua Minh Mạng đã định phép đặt tên, theo đó con cháu của 9 đời chúa Nguyễn trước được xưng là “Tôn Thất”. Vì vậy, đức ông Nguyễn Phúc Thăng được triều đình đổi tên thành Tôn Thất Thăng.
2 Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 492.
3 Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr. 722.
4 Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr. 917.
5 Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr. 926.
6 Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr. 954.
7 Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam liệt truyện, Tập 1, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 74.
8 Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 516.
9 Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr. 504.
10 Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr 344.
11 Đại sư Tánh Toàn Nhất Thể là Tổ khai sơn chùa Bảo Lâm ở làng Dương Xuân (nay thuộc phường Thủy Xuân, thành phố Huế).
12 Cụ Tôn Thất Đàn là con trai của Huyện hầu Tôn Thất Trọng.
13 Dẫn theo Gia phả phủ Phước Long Công, soạn năm Nhâm Thân, niên hiệu Bảo Đại năm thứ 7 [1932].
14 Thích Pháp Hạnh, Nguyễn Văn Thịnh (2024), “Chùa Bảo Lâm và bộ mộc bản Luật tạng”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Thiền phái Liễu Quán: Lịch sử hình thành và phát triển, Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế, tr. 1072.
15 Thượng tọa Thích Đạo Huệ thuộc pháp phái Tường Vân. Sau một thời gian lâm bệnh nặng, Thượng tọa Thích Đạo Huệ đã thu thần viên tịch vào tháng 8/2024. Hiện nay, chùa Phước Hưng do đại đức Thích Phước Trí quản lý và trông coi.
____________________
Tài liệu tham khảo:
1. Dương Văn An (2015), Ô Châu cận lục, Trần Đại Vinh dịch và chú giải, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
2. Nguyễn Đình Đầu (1997), Nghiên cứu Địa bạ triều Nguyễn Thừa Thiên, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Lê Quý Đôn (2018), Phủ Biên tạp lục, Trần Đại Vinh dịch và chú giải, Nxb. Đà Nẵng.
4. Thích Pháp Hạnh, Nguyễn Văn Thịnh (2024), “Chùa Bảo Lâm và bộ mộc bản Luật tạng”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Thiền phái Liễu Quán: Lịch sử hình thành và phát triển, Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế.
5. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam liệt truyện, Tập 1, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
6. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
7. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.
VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.
LTS: Đại Học Huế đang ở tuổi 50, một tuổi đời còn ngắn ngủi so với các Đại học lớn của thế giới. Nhưng so với các Đại học trong nước, Đại Học Huế lại có tuổi sánh vai với các Đại học lớn của Việt như ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trên hành trình phát triển của mình, Đại Học Huế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá ở miền Trung, Tây Nguyên, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực và cả nước. Nhân dịp kỷ niệm này, TCSH phân công ông Bửu Nam, biên tập viên tạp chí, trao đổi và trò chuyện với PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại Học Huế. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện này.
VÕ ĐẮC KHÔICó một thời người Huế loay hoay đi vỡ núi, phá rừng trồng khoai sắn. Có một thời người Huế tìm cách mở cảng nước sâu để vươn ra biển lớn, hay đón những con tàu viễn xứ xa xôi. Cả nước, các tỉnh thành láng giềng như Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng cũng đều ra sức làm như thế, sao ta có thể ngồi yên?
TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGTừng là đất Kẻ Chợ – kinh đô triều Nguyễn xưa, ẩm thực Huế dựa trên nền tảng triết lý của cái đẹp, món ăn món uống phải ngon nhưng nhất thiết phải đẹp, vị phải đi với mỹ, thiếu mỹ thì không còn vị nữa.
TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam (Huế)
FRED MARCHANT(*) Trong chuyến viếng thăm Huế lần thứ hai vào năm 1997, tôi làm một bài thơ đã đăng trong tập thứ hai của tôi, Thuyền đầy trăng (Full Moon Boat). Bối cảnh bài thơ là một địa điểm khảo cổ nổi danh ở Huế. Có thể nói là bài thơ này thực sự ra đời (dù lúc đó tôi không biết) khi nhà thơ Võ Quê đề nghị với tôi và các bạn trong đoàn ghé thăm Đàn Nam Giao trước khi đi ăn tối ở một quán ăn sau Hoàng Thành bên kia sông Hương.
TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.
TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCó một hiện tượng lịch sử lý thú, ở những nơi khác vốn dĩ bình thường nhưng ở Huế theo tôi là rất đặc biệt, đó là tại mảnh đất này sau hơn ba mươi năm ngày đất nước thống nhất, đã hình thành một thế hệ nữ doanh nhân thành đạt giữa chốn thương trường.
MINH TÂMTôi nghe bà con bán tôm ở chợ Bến Ngự kháo nhau: Dân nuôi tôm phá Tam Giang đã xây miếu thờ “Ông tổ nghề” của mình gần chục năm rồi. Nghe nói miếu thờ thiêng lắm, nên bà con suốt ngày hương khói, cả những người nuôi tôm ở tận Phú Lộc, dân buôn tôm ở Huế cũng lặn lội vượt Phá Tam Giang lễ bái tổ nghề.
PHẠM THỊ ANH NGA"Hiểu biết những người khác không chỉ đơn giản là một con đường có thể dẫn đến hiểu biết bản thân: nó là con đường duy nhất" (Tzvetan Todorov)
TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).
TRƯƠNG THỊ CÚC Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.
Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi đầu tư xây dựng những cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người đi du lịch, văn hóa ẩm thực được xem như là cánh cửa đầu tiên được mở ra để thu hút du khách.
Chúng tôi đi thăm đầm chim Quảng Thái, theo ông Trần Giải, Phó chủ tịch huyện Quảng Điền.
I. Chúng tôi xin tạm hiểu như sau về văn hóa Huế. Đó là văn hóa Đại Việt vững bền ở Thăng Long và Đàng Ngoài chuyển vào Thuận Hóa - Phú Xuân.
Thúng mủng Bao La đem ra đựng bột. Chiếu Bình Định tốt lắm ai ơi. Tạm tiền mua lấy vài đôi. Dành khi hiếu sự trải côi giường Lào.
LTS: Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong hiện đang dạy tại trường đại học Kent State thuộc tiểu bang Ohio, . Đây là một trong những bài trích ra từ cuốn Hồi ký âm nhạc, gồm những bài viết về kinh nghiệm bản thân cùng cảm tưởng trong suốt quá trình đi đó đây, lên núi xuống biển, từ Bắc chí Nam của ông để sưu tầm về nhạc dân tộc. Được sự đồng ý của tác giả, TCSH xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.