Đồng vọng yêu thương cho những đứa trẻ trong chiến tranh

08:21 10/11/2023

HẠNH NGUYÊN

Hình tượng người chiến sĩ nhỏ tuổi Ga-vơ-rốt ngoài chiến lũy với sự dũng cảm kiên cường đến phi thường, với lời hát cất lên thật say sưa và cái chết không khó dự đoán đã trở thành một tượng đài phê phán chiến tranh trong lòng độc giả. Victor Hugo của hai thế kỷ trước đã đứng về phía những người khốn khổ, nhất là trẻ em để nói tiếng nói yêu thương đồng thời lên án chiến tranh.

Ảnh: internet

Và theo lý thuyết liên văn bản, “không có một văn bản nào tồn tại độc lập, tự trị như một ốc đảo. Tất cả các văn bản đều có phần lặp lại, phối trộn, liên hệ với nhau”1, những hình tượng trẻ em trong chiến tranh trở đi trở lại trong các văn bản ở khắp các châu lục đã cùng nhau tạo nên lời đồng vọng yêu thương cho những đứa trẻ trong chiến tranh. Bằng mối liên hệ dựa trên tầm đón nhận, mỗi độc giả đều có thể tự nhận thấy được sự yêu mến, bênh vực và cả đau xót dành cho trẻ em khi mỗi tác giả tạo nên một bức tranh chiến tranh tuy có khi chẳng hề tàn khốc. Bởi những đứa trẻ dù có tham chiến hay không thì chiến tranh cũng đã gây ra những nỗi đau khôn cùng cho chúng.

“Du hành” từ Việt Nam với Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, đến Irealand với Chú bé mang pyjama sọc của John Boyne, rồi sang Mỹ với Cáo Pax của Sara Pennypacker, độc giả đều thấy được những hình tượng trẻ em trong chiến tranh với những nỗi đau khác nhau; những thân phận khác nhau. Song suy cho cùng, trẻ em là để yêu thương. Chiến tranh, tại sao lại không biến mất, để trẻ em được sống đúng với cuộc sống chúng đáng được hưởng!? Đó dường như cũng là câu hỏi day dứt mãi của các tác giả và cả độc giả.

1. Rời xa yêu thương

Nỗi đau đầu tiên mà những đứa trẻ buộc phải chịu khi chiến tranh nổ ra là chúng phải rời xa yêu thương. Tính liên văn bản được thể hiện rõ ở việc những nhân vật nhỏ tuổi trong Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán và Cáo Pax của Sara Pennypacker đều đối diện với những chia ly - với quê hương, với người thân, với bạn bè. Mỗi một sự rời xa yêu thương đều là một nỗi đau trong lòng những đứa trẻ.

Trong Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, mở đầu là hình ảnh những đứa trẻ Vệ quốc đoàn đang “hành quân” và tập luyện bên sông Bạch Đằng (sông Đông Ba) - một nhánh sông đào của con sông Hương. Chúng đều chỉ là những đứa trẻ “ăn chưa no lo chưa tới” nhưng vì chiến tranh phải trở thành chiến sĩ. Rời xa gia đình, xa quê hương, xa luôn cuộc sống vốn dành cho trẻ nhỏ. Lao vào chiến trận với một trách nhiệm vốn chỉ dành cho “tráng niên”. Những Quỳnh, những Tư-dát, những Lượm... đều chấp nhận như một lẽ hiển nhiên - rời xa những điều thân thuộc nhất. Đặc biệt là Mừng. Trong quá trình đi tìm lá thuốc chữa bệnh hen suyễn cho mẹ, em gia nhập Vệ quốc đoàn, trở thành chiến sĩ nhỏ tuổi nhất. Em bé ước ao đất nước giải phóng để nhà nước chữa bệnh cho mẹ, cho tất cả người dân. Trong giấc chiêm bao, nỗi nhớ mẹ, khát khao được gặp mẹ chảy tràn khóe mắt em:

Đang ngủ rất say, Vịnh-sưa vụt choàng tỉnh dậy. Có tiếng khóc thổn thức ngay cạnh tai em. Em ngồi hẳn lên. Hóa ra Mừng khóc, vừa khóc vừa nói mớ. Vịnh đưa tay sờ má bạn. Ui chao, cả hai má ướt đẫm nước mắt nóng hổi…

- Cậu nằm mê chuyện chi mà khóc dữ rứa?

- Tui nằm mê được đội trưởng cho phép về thăm mạ… Vừa lúc tui tìm được cái nồi để sắc thuốc cho mạ, thì anh đánh thức tui dậy… Tiếc quá!”2

Câu chuyện hai mẹ con em Mừng lạc nhau trong chiến tranh đã lấy đi nước mắt của độc giả nhiều nhất thiên tiểu thuyết. Người mẹ phải tản cư. Mừng tìm về nhà không còn mẹ. Em lên chiến khu Hòa Mỹ. Còn mẹ em gánh hàng bún bò đi khắp mọi con đường, mọi mặt trận, mọi chiến khu của tỉnh Thừa Thiên mong tìm được con… Và rồi. Mừng chỉ được gặp lại mẹ khi bà hấp hối bởi bom đạn của Tây. Bà chết khi nỗi oan thấu tận trời xanh của con trai còn chưa được sáng tỏ. Đó là sự đả kích quá lớn đối với Mừng. Một nỗi đau như vậy, chỉ diễn ra ở thời chiến. Chiến tranh khiến trẻ thơ không còn được là trẻ thơ. Chiến tranh buộc chúng phải đối diện với những đớn đau không tưởng.

Rời xa yêu thương” cũng được Sara Pennypacker thể hiện rõ trong Cáo Pax. Khi chiến tranh nổ ra, Peter buộc phải rời xa Pax - người bạn nhỏ của mình. Nỗi đau của cậu bé diễn ra bất ngờ mà day dứt: “Nhưng hôm nay cậu bé lại nâng chú thú cưng lên, vùi mặt vào khoang cổ trắng muốt, ôm ghì lấy nó. Lúc ấy chú cáo mới nhận ra rằng cậu chủ đang rấm rứt khóc... Cậu bé lại kéo nó vào lòng và khẩn khoản nói chuyện với cha… chỉ có độc tiếng KHÔNG được lặp đi lặp lại với cha, đầy van vỉ tha thiết…”3. Đối với đứa trẻ mồ côi mẹ từ sớm, còn cáo Pax là do mẹ nhận nuôi và để lại, xa Pax là điều đau đớn vô tận. Nên trong phút buộc phải thả Pax vào rừng còn mình phải đến nhà ông nội sống vì ba phải tòng quân, Peter chỉ còn biết bất lực gọi tên Pax trong tuyệt vọng “Pax ơi!” Nỗi tuyệt vọng biến thành nỗi đau, và đứa trẻ đó phải nghe một lí do đối với nó rất khó hiểu: “Trái tim cậu hoảng loạn và đập liên hồi. Khóe mắt lại cay cay, và Peter đưa tay quẹt nước mắt trong bất lực. Cha cậu nói đó là điều phải làm. “Chiến tranh đang tới. Đồng nghĩa với việc ai nấy đều phải hy sinh.””4 Lời tuyên bố của người cha khẳng định Peter phải xa thú cưng của nó; còn đối với độc giả, nó là một nỗi chua xót. Thật sự chua xót bởi một đứa trẻ, đâu đã hiểu gì về chiến tranh! Nó chỉ biết một điều rằng, chiến tranh là phải rời xa những gì thân thuộc nhất. “Phải hy sinh”. Ngay khi còn là một đứa trẻ.

Với nỗi đau, niềm ân hận vì đã bỏ lại người bạn thân thiết của mình, Peter quyết định trở lại rừng tìm Pax và cậu đã bị thương nặng ở chân. Trong những ngày ở nhờ nhà bà Vola, Peter dùng hết nghị lực để tập đi, để có thể mau chóng tìm lại Pax. Peter oán trách cha đã chia cắt Pax với mình. Nhưng rồi cậu cũng phải nhìn vào nguyên nhân cốt lõi của sự rời xa yêu thương: “Cháu không tức giận. Chỉ là cháu không hề lựa chọn nó. Cháu không hề lựa chọn xảy ra chiến tranh. Cháu không hề lựa chọn cha mình đi tòng quân. Cháu không hề lựa chọn rời bỏ mái ấm gia đình. Cháu không hề lựa chọn đến nhà ông nội. Và nhất định là cháu không hề lựa chọn bỏ mặc con vật mà mình đã chăm sóc suốt năm năm... Cháu để nó đi bởi chiến tranh. Chiến tranh, chứ không phải hòa bình… Nó có thể sẽ chết vì một trận chiến.”5 Một loạt cụm từ “cháu không hề lựa chọn” được lặp lại trong lời nói của Peter xoáy sâu vào nỗi bất lực đến đớn đau của một đứa trẻ. Những điều lẽ ra mỗi đứa trẻ được hiển nhiên lựa chọn, nay trở thành điều buộc phải mất đi, do chiến tranh. Yêu thương và được yêu thương là quyền cơ bản của trẻ em. Nhưng chiến tranh đã đẩy những đứa trẻ vào nỗi cô độc tuyệt vọng trong niềm phẫn uất bất lực. Trong đó còn có nỗi ân hận, sự lo lắng bất an vì yêu thương của mình có thể sẽ mất đi mãi mãi. “Nó có thể chết vì một trận chiến”. Nỗi lo lắng của Peter rất thực. Bởi chiến tranh là chết chóc, là đau thương. Những đau thương không ai có thể lường được biên giới của nó.

Bằng việc cùng khắc họa nỗi đau của trẻ em trong việc phải rời xa yêu thương, Phùng Quán và Sara Pennypacker đã cùng gặp nhau ở niềm thương cảm sâu sắc và tiếng nói tố cáo chiến tranh. Chiến tranh tước đoạt những điều đẹp đẽ nhất, giá trị nhất của một đứa trẻ. Cô độc và mất mát khi còn quá nhỏ bé để hiểu, nhưng mỗi đứa trẻ đều cảm nhận được nỗi đau tận cùng do chiến tranh gây ra cho mình, cho những yêu thương quý giá nhất của mình.

2. Và vẫn thơ ngây - thơ ngây đến đau lòng

Đối diện với chiến tranh - điều mà người lớn sợ hơn bất cứ thứ gì, thì những đứa trẻ vẫn nhìn nó với ánh mắt ngây thơ. Chính sự ngây thơ này càng khiến độc giả đau xót. Các tác giả đã “vô tình liên văn bản” khi sử dụng ánh nhìn trẻ thơ, giọng điệu trẻ thơ để khắc họa sự dữ dội của chiến tranh. Điều này càng chạm đến tận cùng niềm thương xót của những người có lương tri lương năng trên khắp nhân loại. Đó là Shmuel - một cậu bé Do Thái trong nhà tù diệt chủng Ao-tuýt; đó là Mừng - cậu bé lên ở chiến khu Hòa Mỹ vì lý tưởng giải phóng dân tộc. Cả John Boyne và Phùng Quán đều rất thành công trong việc sử dụng điểm nhìn trẻ thơ để khắc họa nỗi đau chiến tranh gây ra cho trẻ nhỏ.

Shmuel đã kể với người bạn Bruno về hoàn cảnh của mình: “… quân lính xây một bức tường khổng lồ và cha mẹ anh em chúng tớ tất tật sống chung trong một phòng… Bọn tớ sống ở đó thêm mấy tháng nữa… Rồi một ngày quân lính ồ ạt kéo tới cùng những chiếc xe tải khổng lồ… và xe tải chở bọn tớ tới một đoàn tàu… Chuyến tàu rất khủng khiếp… Thứ nhất là có quá nhiều người trong toa. Chẳng có không khí mà thở. Và mùi mè thì rất ghê… Khi cuối cùng con tàu cũng dừng lại… Bọn tớ ở một nơi lạnh lẽo và tất cả bọn tớ phải cuốc bộ tới đây.”6 Chuyến đi đến trại tập trung Ao-tuýt kinh hoàng mà mỗi lần nhắc đến đều khiến con người ám ảnh, lại được kể bằng một giọng điệu ngây thơ đến đau lòng. Shmuel không biết được điều gì đang đợi mình và những người Do Thái như mình ở nơi đó… Không bao giờ Shmuel lại có thể biết được chuyến đi ấy là định mệnh.

Và sự ngây thơ của Shmuel còn ám ảnh hơn khi cậu bé kể với bạn Bruno của mình về “sự biến mất” của cha cậu:

“Tớ xin lỗi,” Shmuel nói. “Có chuyện đã xảy ra.”

… “Sao?”, Bruno hỏi. “Có chuyện gì vậy?”

Cha tớ”, Shmuel nói. “Nhà tớ không tìm thấy cha.”[…] “Hôm thứ hai cha vẫn ở đây, rồi cha đi làm việc với một số người khác và chẳng ai trong số họ trở lại nữa cả.”

Cha cậu không viết thư cho cậu à?” Bruno hỏi. “Hay để lại lời nhắn báo tin khi nào về?”

Không có… Dĩ nhiên tớ đã đi tìm.”, Shmuel nói bằng một tiếng thở dài. “Tớ đã làm việc mà cậu đã luôn nói tới. Tớ đã làm một vài cuộc thám hiểm.”

… “Tớ không biết nhà tớ sẽ làm gì nếu không có bố.”7

Bruno cũng ngây thơ không kém khi tiếp nhận câu chuyện của bạn mình. Hai đứa trẻ 9 tuổi: một đứa trẻ Do Thái, một đứa trẻ người Đức có cha là “Ngài chỉ huy” từ Béc-lin tới Ao-tuýt để làm “nhiệm vụ đặc biệt”, trở thành bạn của nhau và trò chuyện qua hàng rào thép gai; rồi cùng nhau bàn về sự mất tích bí ẩn của một người Do Thái bên trong hàng rào thép gai ấy. Thậm chí Bruno hồn nhiên còn đề nghị “tớ sẽ hỏi cha tớ nếu cậu muốn.” Những dòng đối thoại thơ ngây của hai đứa trẻ trở thành những vết cứa vào lòng độc giả - dù có là người lạnh lùng nhất cũng sẽ cảm thấy đau. Chúng không bao giờ hiểu được người lớn, không bao giờ hiểu được “mình là ai?”, không bao giờ hiểu được chiến tranh nhân danh điều gì để khiến chúng, dù rất muốn gần nhau, phải nói một “ước ao” mà vốn là bình dị giữa đời thường:

“Tớ ước chúng ta có thể chơi cùng nhau,” Bruno nói sau một thoáng ngưng dài. “Chỉ một lần thôi. Chỉ để ghi nhớ.”

“Tớ cũng vậy,” Shmuel nói.

“Bọn mình đã nói chuyện với nhau hơn một năm rồi nhưng bọn mình chưa bao giờ được chơi cùng cả. Và cậu còn biết gì nữa không?” Bruno nói thêm… “Nếu tớ cũng có một bộ pyjama sọc, tớ có thể sang thăm chỗ cậu mà chẳng ai phát hiện được.”

Mặt Shmuel sáng bừng… “Và cậu có thể giúp tớ tìm cha.”

“Sao không chứ”, Bruno nói.8

Bộ đồ tù nhân đã trở thành một trang phục thoải mái mà Bruno bên này hàng rào ao ước được cùng mặc với bạn, để giống bạn, để có thể một lần được chơi với bạn, để giúp bạn đi tìm cha… Và hai đứa trẻ đã quyết định “một kế hoạch thám hiểm” trong chính trại Ao-tuýt mãi mãi chúng không hiểu bản chất là gì.

Không tự thấy mình “vô can” rồi hồn nhiên đến đau lòng như Bruno và Shmuel, chú bé Mừng trong Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán ý thức rõ được về chiến tranh, về nhiệm vụ của mình; song em lại hồn nhiên để đến mức phải trả một cái giá bằng mạng sống của mình. Đó là Mừng hồn nhiên tin tất cả bạn bè trong Vệ quốc đoàn. Mừng tin những lời nói dối thành thục của “tên điệp viên” Kim để rồi bị Kim lợi dụng. Cho đến khi phát hiện Kim lừa mình để chụp được tấm bản đồ đặc biệt của chiến khu Hòa Mỹ, Mừng sực tỉnh. Mừng quyết giành lại tấm bản đồ. Mừng giành giật bằng cả mạng sống, bất chấp cơ thể bé nhỏ do thiếu dinh dưỡng và ghẻ lở khiến bàn tay em tươm máu. Bị Kim ranh mãnh cõng về căn cứ Tây, Mừng tìm mọi cách trốn thoát lên chiến khu. Chi tiết này, Phùng Quán đã lần nữa khắc họa sự ngây thơ trong sáng vô cùng của Mừng, khiến em trở thành nạn nhân của chính nó, mà những nỗi đau Mừng trải qua khi trở lại chiến khu khiến mỗi độc giả nghẹt thở.

Không ai còn tin Mừng. Sự ngây thơ của em biến thành sự tinh ranh của một tên điệp viên xuất chúng:

“Trước những lời nguyền rủa của các bạn, gương mặt Mừng tái nhợt như xác chết…

Gương mặt và những giọt nước mắt ngắn dài chảy tràn trên hai gò má trẻ thơ của em khiến Lê Hường thoáng có ý nghĩ “Hay là nó đúng bị oan?” Nhưng anh đã gạt ngay ý nghĩ đó đi…

- Tôi gặp không ít những tên điệp viên nhà nghề có hạng. Nhưng chú mi mới là tên điệp viên sừng sỏ nhất, tinh quái nhất…

Thật ra, về sau này, Lê Hường mới biết, ngay cả hai tiếng “điệp viên” Mừng cũng không rõ nghĩa.”9

Sự hồn nhiên mọi ngày của Mừng bỗng biến thành sự giả trá thành thục. Chiến tranh đã biến những đứa trẻ thơ ngây thành “điệp viên” một cách đầy đớn đau - khi chúng sống thật với bản chất, cũng bị nghi ngờ. Một lời lên án mạnh mẽ: trẻ em không còn được ngây thơ hồn nhiên! Chiến tranh đã tước đoạt hết mọi quyền của trẻ thơ, ngay cả bản chất của chúng. Nhưng chiến tranh không ngăn được sự hồn nhiên đáng yêu của trẻ thơ. Điều này mới khiến độc giả đau lòng hơn cả. Mừng cũng vậy, em ngây thơ nhưng quyết liệt và trung thành với điều em cho là đúng đắn đến tận hơi thở cuối cùng: Trong đợt quân Pháp tấn công lên chiến khu, đồng đội em trên đài quan sát cây quao đều hy sinh, Mừng dũng cảm thay các bạn làm tiếp phần việc. Và ngay khi bản thân bị thương nặng, lời nói cuối cùng, cũng là lời nói ngây thơ xé lòng:

Anh đừng nghi em là Việt gian nữa anh hí!

Người chỉ huy qua máy điện đàm giữa chiến trường bom rơi đạn nổ ác liệt đã không còn nghe bất cứ âm thanh đáng sợ nào sau lời nói thều thào hồn nhiên như một hơi thở của Mừng. Câu nói đó biến thành nỗi đau suốt đời người chỉ huy. Câu nói kết thúc cuộc đời hồn nhiên của em đã khiến biết bao độc giả buốt nhói tận tâm can. Và trở thành lời nói trẻ thơ tố cáo chiến tranh mãnh liệt nhất.

Cũng rất ngây thơ, Bruno và Shmuel trong Cậu bé mang pyjama sọc lại đến với cái chết một cách nhẹ nhàng chứ không dữ dội như Mừng:

Chúng bắt mọi người đi diễu hành […] Tớ chưa bao giờ gặp lại ai sau khi họ đi diễu hành.” […] Nhưng ngay khi cậu nói vậy, đôi chân đã đưa cậu lên một bậc tam cấp và khi bước tiếp cậu nhận ra rằng không còn mưa rơi xuống nữa. Tất cả bọn họ đã bị nhét vào một căn phòng dài ấm áp đến kinh ngạc và hẳn được xây hết sức an toàn… “Ồ, phải thế chứ… Tớ hy vọng chúng ta sẽ được ở đây cho tới khi mưa tạnh hẳn…”10

Căn phòng hơi ngạt nổi tiếng của phát xít Đức đã kết thúc cuộc đời những đứa trẻ ngây thơ khi chúng “yên tâm” bởi sự “ấm áp” và “an toàn” của nó. Bruno và Shmuel không bao giờ biết rằng cái chết lại đến nhẹ nhàng như vậy. “Rồi sau đó căn phòng trở nên rất tối và không hiểu vì sao, bất chấp những lộn xộn diễn ra sau đó, Bruno nhận ra rằng mình vẫn đang cầm tay Shmuel và không gì trên đời có thể thuyết phục cậu rời bàn tay đó ra.”11 Trong nhận thức của một đứa trẻ, được ở nơi ấm áp như vậy và cầm mãi bàn tay của bạn mình hẳn là một niềm hạnh phúc.

Chỉ có độc giả - người lớn chúng ta đau đớn đến nghẹt thở bởi sự hồn nhiên ấy.

Lời kết

Người viết mượn lời bài thơ của nhà thơ Lưu Quang Vũ để tiếp tục liên văn bản - tiếp tục cho thấy sự đồng vọng yêu thương của các tác giả dành cho trẻ em trong chiến tranh:

Nỗi đau nhịp cầu gãy đổ
Nỗi đau nhà tan gạch vỡ
Nhưng da diết nhất nỗi buồn
Mọi khu nhà đều vắng bặt trẻ con
Chỉ còn người lớn tinh khôn
Chỉ còn tiếng gầm tiếng nổ

Mái nhà ta trẻ con không dám ở
Các em ơi hãy tha thứ cho anh
Những con quay, những hòn bi bé nhỏ
Hãy tha thứ, anh xin làm tất cả
Để các em trở về
Để cuộc sống như bức tường tin cậy chở che Các em vẽ những vòng tròn rực rỡ.

Dù có ở đâu, thời gian nào, con người vẫn luôn ghê sợ chiến tranh. Bức tranh tang thương chiến tranh gây ra càng đáng bị lên án bởi có trẻ em trong đó. Cùng họa lên bức tranh chung, mỗi tác giả góp một đường nét riêng. Và mỗi nét vẽ đều mang một lời yêu thương, lời cảm thông sâu sắc cho các em tuổi nhỏ. Tính liên văn bản đã làm nên lời đồng vọng yêu thương cho trẻ em trong chiến tranh.

H.N
(TCSH416/10-2023)

-------------------------------
1 Nguyễn Văn Thuấn, Giáo trình Lý thuyết liên văn bản, Nxb. Đại học Huế, năm 2019, trang 292.
2 Phùng Quán, Tuổi thơ dữ dội, Nxb. Văn học, năm 2013, trang 71, 72.
3 Sara Pennypacker, Cáo Pax, Nxb. Hội Nhà văn, năm 2021, trang 12, 13.
4 Sara Pennypacker, Cáo Pax, Sđd, trang 23.
5 Sara Pennypacker, Cáo Pax, Sđd, trang 121, 122.
6 John Boyne, Chú bé mang pyjama sọc, Nxb. Hội Nhà văn, năm 2020, trang 153, 154, 155, 156.
7 John Boyne, Chú bé mang pyjama sọc, Sđd, trang 228, 229.
8 John Boyne, Chú bé mang pyjama sọc, Sđd, trang 228, 231, 232, 233.
9 Phùng Quán, Tuổi thơ dữ dội, Sđd, trang 675, 683, 684.
10 John Boyne, Chú bé mang pyjama sọc, Sđd, trang 245, 247.
11 John Boyne, Chú bé mang pyjama sọc, Sđd, trang 249.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.