NGUYỄN QUANG HUY
1.
Nếu quan sát nghiêm túc diễn tiến lịch sử Việt Nam, có thể khẳng định giai đoạn đầu thế kỉ XX đã diễn ra những hoạt động với tính chất sôi nổi nhất, nhiều xu hướng mang tính chất định hình và phân hóa, dẫn tới những đóng góp cốt yếu cho xã hội Việt bước vào thời hiện đại. Chủ thể của nó, kẻ vừa tạo ra cuộc chơi, cũng là người chơi: trí thức. Sự sôi nổi này phức tạp đến mức, nếu đưa ra một kết luận về bức tranh những gương mặt tiêu biểu, và định danh cho thật trúng vị thế xã hội của họ thật khó, cơ hồ rơi vào điều bất khả. Khó bởi nhiều lí do, một mặt, bởi tự thân trí thức, bởi các hoạt động đa dạng của trí thức đầu thế kỉ, bởi những nhiễu loạn từ sự linh động trong việc lựa chọn các phương thức tồn tại, bởi những đe dọa, lôi kéo và thôi thúc từ thực tiễn lịch sử mà tri thức phải/ được/ bị mặc những màu áo khác nhau, v.v. Chỉ lướt qua một loạt các cách định danh mang tính chủ nghĩa và khuynh hướng như: Văn hóa chủ nghĩa, Cải lương chủ nghĩa, chí sĩ tân thời (nhóm), chí sĩ Duy tân (nhóm), trí thức cải lương (nhóm), ôn hòa (nhóm), trí thức duy tân, trí thức canh tân, dân tộc chủ nghĩa, Cựu học, Tân học, v.v. cũng đủ thấy sự đa dạng và phức tạp. Mặt khác, xét trong bối cảnh xã hội tổng thể, do sự gặp gỡ, va chạm và pha trộn nhiều yếu tố. Chính trong những hoàn cảnh như vậy, vấn đề trí thức bản địa nổi lên như một đòi hỏi tất yếu. Bài viết này, đặt trong những tương quan như vậy, hướng đến tìm hiểu hai vấn đề. Một, xem xét địa vị thuộc địa của trí thức Việt Nam đầu thế kỉ, từ sự gợi dẫn qua những nghiên cứu của những người đi trước, qua đó, hai, hướng đến những động thái của nó trong trường hợp cụ thể - Huỳnh Thúc Kháng. Để làm điều này chúng tôi tập trung hướng vào các đối tượng và phạm vi cụ thể như: Trí thức và thế hệ trí thức; xã hội thuộc địa; lựa chọn giá trị và tập trung vào phần thơ văn, dịch thuật, những bài nghị luận, v.v. của Huỳnh Thúc Kháng. Điều quan trọng rút ra từ hai nội dung trên là góp phần trả lời cho câu hỏi Huỳnh Thúc Kháng là ai1.
2.
Xuất thân nhà nông nhưng do những nỗ lực trong cải thiện vị thế xã hội không ngừng, sự nghiêm túc dùi mài kinh sử, việc Huỳnh Thúc Kháng đỗ “tam giáp đồng tấn sĩ” lúc 29 tuổi, khoa Giáp Thìn triều Thành Thái 16 (1904)2 đã đưa ông lên vị trí “tinh hoa bản xứ”. Điều này là vinh quang của gia đình ông, nhưng cùng với thế hệ của mình - thế hệ 19073, ông được xã hội trông đợi và lưu ý nhiều điều. Từ trước đến nay, việc đánh giá Mính Viên đã được quan tâm rất nhiều, thậm chí, có thể việc “yêu” quá này khiến cho một phần Huỳnh Thúc Kháng trở nên rất quen, nhưng cũng từ đây dẫn đến một hệ lụy là thực ra ông là “nhà” nào trong số rất nhiều “nhà” mà những người nghiên cứu đã cấp nghĩa cho ông: Huỳnh Thúc Kháng là nhà thơ cách mạng (Nguyễn Vỹ), Huỳnh Thúc Kháng là (nhà) yêu nước theo chủ nghĩa ôn hòa (Trần Văn Giàu), nhà yêu nước kiệt xuất, nhà văn, nhà thơ yêu nước, nhà dịch thuật tài năng, v.v. (Văn Tạo), nhà học giả cũ trên bước đường canh tân, người chiến sĩ văn hóa, nhà sử học (Chương Thâu), v.v. Bởi hai lí do, một phần, các hoạt động của trí thức thường mang tính chất chuyên biệt về một vài lĩnh vực có liên hệ nhất định và quan trọng hơn, trong một nghĩa nhất định, nếu dựa trên những nền tảng xã hội, hệ tư tưởng, v.v. thông thường nó có những quyết chọn theo những khuôn mẫu nhất định, đặc biệt là những trí thức có những liên hệ mật thiết với các giá trị truyền thống. Thứ hai, chính hoạt động đa dạng của Huỳnh Thúc Kháng.
Về mặt lí thuyết, nếu theo cách hiểu truyền thống, một cách tổng quát, xã hội đòi hỏi “trí thức là những người sáng tạo văn hóa cao cấp, là triết gia và các nhà phát kiến khoa học của thời đại - những người (có thể) thay đổi lịch sử bằng cách truyền bá những tư tưởng mới vào các xã hội bị ràng buộc bởi truyền thống của họ”, thuộc giới “hàn lâm”4. Nhưng ở cách khác, theo F. Châtele, khi tham gia vào xã hội, lại coi “người trí thức không phải là triết gia, không phải bác học, không phải nghệ sĩ. Trí thức tham gia vào công việc của tất cả các hội đoàn bằng những khám phá và phát minh, nhưng họ lại đứng trên tất cả các hội đoàn đó. Chính nhân danh khả năng này mà trí thức được đánh giá tin cậy để gửi gắm một trách nhiệm cao cả”5. Tính chất của nó không đòi hỏi những ràng buộc về nhóm rõ ràng trong các thang bậc xã hội và quan trọng hơn, thể hiện sự độc lập trong suy nghĩ, hành động trong tương tác với xã hội. Nó tạo nên những điểm nhấn nhất định nào đó, hoặc khơi dậy những đam mê lớn lao, hoặc “khơi dậy trong nhận thức những khái niệm còn chưa bộc lộ”, v.v. trong xã hội. Có thể nói, trí thức, nếu nói chung, là “không thể định hạng” (F. Châtele), mà cần phải đặt nó trong một vài tương quan. Sự phức tạp của nó còn được làm tăng thêm, nếu nhìn trường hợp xác định tri thức Việt Nam giai đoạn lịch sử đầy biến động cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Vì có thể trong những áp lực quá lớn của “cơn biến động lịch sử” “mưa Âu gió Á”, những lôi cuốn vào các phong trào, các chủ nghĩa, thậm chí đòi buộc phải theo phe, nhóm, chủ nghĩa nào đó hoặc là “phải đánh đổi đến hình hài” dội vào cá nhân trí thức khiến nó phải tự trang bị cho mình những “vai diễn” khác nhau mà vai nào cũng không nên sơ suất. Người trí thức, không phải trong hoàn cảnh nào nó cũng là trung tâm của đời sống xã hội. Có khi nó là “vật trang trí”, “vật tô điểm”, “vật trung gian”, là “chất xúc tác” như các nhà Xã hội học về tri thức đã chỉ ra. Tuy thế, trong bối cảnh Việt Nam đang đề cập đến, người trí thức được “tự do diễn các vai của mình”. Nó trở thành trung tâm của mọi sự chú ý:
Sơ đồ Vị trí trí thức bản địa đầu thế kỉ XX
Khi biểu tượng của “tổ chức quốc gia” đang phân hóa không phương hướng tối ưu và “đời sống dân chúng” phần lớn rơi vào tình trạng thất học, khiến vị trí của trí thức càng nổi bật. Nó đề xuất các lựa chọn, nó tranh cãi, lật đổ và xác lập các giá trị, nó biện thuyết, nó chạy theo hoặc xây dựng các xu hướng, v.v. và về căn bản, địa vị thuộc địa của trí thức Việt Nam đầu thế kỉ không làm cho các đề xuất của nó bị lu mờ, mà ngược lại, các vấn đề nó đặt ra vẫn nguyên những giá trị cho đến hôm nay. Trường hợp Huỳnh Thúc Kháng, đặt trong tổng thể, cần xoay quanh các khía cạnh trung tâm như: cấu trúc xã hội truyền thống thay đổi, kéo theo những suy tư cải tổ về biểu tượng và giá trị tinh thần truyền thống; tính ích dụng của hệ thống giáo dục và những đòi hỏi từ thực tế; những tính chất và biểu hiện của thời quá độ, chuyển tiếp; công cuộc thực dân và những đòi hỏi của người bản xứ; trí thức mới, trí thức cũ, v.v.
3.
Những động thái cơ bản của trí thức bản địa đầu thế kỉ XX, xẩy ra sau thế hệ Cần Vương, trên nét lớn có tính chất như một cuộc tự vấn mang tính chất sống còn về vai trò và bổn phận của mình với xã hội. Hàng loạt các cái chết về sinh mạng cũng như thất bại “nhục nhã” về mô hình, sự khủng hoảng của quan lại cổ điển đầu thế kỉ khiến cho tinh thần “tự cải tổ của trí thức” diễn ra bức bách hơn bao giờ hết. Sở hữu trong mình trí tuệ được liệt vào hạng tinh hoa, đỗ đạt cao nhưng từ chối khoa hoạn là nỗ lực độc lập của Huỳnh Thúc Kháng trong việc xác lập thái độ tri thức của mình trong tương quan với xã hội. Ông nhận thức được vai trò của “trí thức mới” qua việc giảng dạy tư, làm báo, viết lách.
Trước hết, hãy nghe những điều mà Huỳnh Thúc Kháng tự nói về mình: “tôi là người thuộc về đời quá khứ, không còn thích hợp với thời đại … nhứt là ý khí hoạt động của đa số thanh niên đã hấp thụ Âu hóa trên vài ba mươi năm trở lại đây”; “tôi được làm tên dân biết chữ dưới triều quốc gia độc lập, khoái ý mãn nguyện thay”. Ông “đứng tếch riêng ra, côi quạnh một mình, không tham dự vào bất kì đảng phái nào hay phong triều gì”6. Bỏ ra ngoài các tính chất của sự khiêm tốn, những đoạn trên, nếu xâu chuỗi trong các hoạt động đa dạng “mang tính tri thức” của ông như: sáng tác thơ văn, nghiên cứu thơ văn, nghiên cứu lịch sử, làm báo, dịch thuật, đòi dân quyền, v.v. ông là người hoạt động văn hóa theo đúng nghĩa chuyên môn của nó và theo đó, góp công lớn cho công cuộc cải tổ văn hóa của trí thức Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Sơ đồ Các thời điểm quan trọng trong hoạt động của Huỳnh Thúc Kháng7
Sự cải tổ văn hóa của Huỳnh Thúc Kháng, trước hết, từ động thái học hỗn hợp, sử dụng ngôn ngữ Hán và Quốc ngữ. Trong một cuộc gặp với Nguyễn Thiệu Lâu, Huỳnh Thúc Kháng trần tình “ông (Nguyễn Thiệu Lâu) khá về Pháp văn, tôi (Huỳnh Thúc Kháng) thời chẳng biết một chữ Pháp nào cả. Ông giỏi Pháp văn, tôi khuyên ông nên học Hán văn để thâu nhiễm tư tưởng của Thánh hiền, không phải là vô ích”8. Cách Huỳnh Thúc Kháng muốn chuyển tải có lẽ nằm ở ẩn ý muốn hướng đến sự hài hòa, cân bằng giữa tri thức Hán học và tri thức Tây học. Sự lựa chọn Đông - Tây của ông có lẽ không ngoài lí thuyết “Đông học vi thể, Tây học vi dụng” trong không khí cải cách Tân Khổng giáo. Tuy nhiên, phương thức triển khai của Huỳnh Thúc Kháng sát với những quan điểm mà ông lựa chọn: miêu tả những cải cách cho dân chúng nghe và thấu hiểu. Ông là một “ký giả” trong thời đại mới. Thái độ ôn hòa và khiêm nhu này một mặt thể hiện từ chính sự gián cách thế hệ, do một phần từ sự quy định mang tính chất mặc cảm của nhà nho nông thôn tỉnh lẻ, và phần khác đến từ sự chiêm nghiệm chính hoàn cảnh dẫn đường, như ông chia sẻ:
Trộm nghĩ tôi:
Sanh cửa hàn vi, tánh trời quê thẳng,
Nhỏ theo nghề học, lớn trộm tiếng suông.
Trên hai mươi năm, chỉ chuyên một việc,
Tuy trong lúc chạm sâu khắc dấu,
Vẫn ôm lòng gái Lỗ góa Châu.
…
Đại ngục mười ba năm trường trải
Nếm đủ mùi ngọt, đắng, cay, chua,
Cuộc đời hai mươi kỷ đổi thay, hẳn vắng bặt trong ngoài tin tức,
Đành vậy song cùng núi kiệt, rừng Hán lâm chưn nhạn không thơ.
…
Mà lỗi xưa dường núi lớn, tên sổ tù còn chép ở ngục thư
Xó bếp gục đầu thôn cùng bó cẳng,
Quân dân xem như vật quái, thân hữu nhiều kẻ tuyệt giao
…
Tôi, chỉ có: Cảm mà xen sợ, lo lại hổ lòng
Thu bồng hai mái tóc sương, dám học kẻ ra rừng làm cỏ nhỏ;
Xuân vũ một chuôi cày nghé, xin làm dân biết chữ giữa làng nông9.
Đoạn trích dẫn chất chứa cảm xúc trần tình này vừa thể hiện mối “cảm cựu đau đời dọc ngang trong ruột” (Phan Bội Châu) vừa lưu ý về đường đi mà Huỳnh Thúc Kháng lựa chọn.
Sau sự kiện tù Côn Đảo, việc gián cách thế hệ của Huỳnh Thúc Kháng là một sự thật, khi tình thế văn hóa đang hướng đến một thế hệ trung tâm khác - thế hệ Tây học, mà ông ít có cảm tình. Đây cũng chính là ngưỡng tri nhận của ông. Trên bề mặt, ông có hai sự đứt đoạn: 1/ 13 năm nhà tù thực dân, rơi vào thời điểm diễn ra nhiều sự kiện sôi nổi trên thế giới và trong nước và 2/ mặc dù có sự hô hào cổ vũ cho việc bỏ khoa cử, bỏ Hán học nhưng thực tế chứng minh, bản thân ông không vượt qua ngưỡng đó, nó thể hiện sâu đậm trong hàng loạt các thái độ ứng xử: Sáng tác thơ văn theo hình thức và tư tưởng của thế hệ cổ điển, nhấn mạnh đạo đức truyền thống, luân lí Thánh hiền trong các tranh biện về văn chương và phong tục, v.v. Nhiều chỗ, có thể coi là tính chất nước đôi, Đông - Tây hòa hợp: “Nói cho thực tình thì tân không phải là toàn hay, cựu không phải là toàn dở, mà phái điều đình kia cũng lợi hại tham bán. Nếu như thực lòng cách tân theo triều lưu chung trên thế giới và tình thế trong nước mà nên hẳn ra một đường quang minh chính đại, chăm vào mặt lợi ích đại đa số mà đi thì may phước cho xứ ta biết nhường nào”10. Đây cũng là cách thế không quyết chọn về chính giới, mà hướng về đại đồng. Sự kiện quan trọng nhất, theo chúng tôi, đối với “cụ Huỳnh” được thể hiện qua những bài biết trên báo Tiếng dân, qua hoạt động mang tính chất học thuật, như là nét trội nhất được nhà trí thức văn hóa Huỳnh Thúc Kháng thể hiện. Sự quan tâm của ông, về hiện tượng, là khá đa dạng: Văn học, sử học, chính trị, đạo đức, v.v. Nhưng về bản chất, vẫn xoay quanh trục chính là lấy các giá trị cổ điển của dân tộc làm trung tâm, lấy việc hướng khai tâm cho dân chúng làm mục đích. Dù trên lĩnh vực nào ông cũng hướng đến các nhân cách cao thượng, những chí khí cương quyết, những tài năng lỗi lạc. Dấu ấn quan trọng trong học thuật mà Huỳnh Thúc Kháng để lại là tính chất lựa chọn mẫu để biện thuyết cho cuộc cải tổ tri thức hướng đến văn hóa nhận thức mới. Ví dụ, khi công nhận công lao, Huỳnh Thúc Kháng đặt ngang hàng các đóng góp của Trương Vĩnh Kí và Nguyễn Lộ Trạch, Phan Châu Trinh, Nguyễn Trường Tộ. Điều này ít thấy sự quan tâm của những trí thức cùng thời như ông, và về sau, ông vẫn tạo ra được những ảnh hưởng quan trọng. Đặt những vấn đề như trên, trong trường hợp Huỳnh Thúc Kháng, với chúng tôi là khởi điểm để hướng đến các vấn đề về trí thức Quảng Nam, về tri thức bản địa đầu thế kỉ XX. Hành trình của nó, cần phải nới rộng trong một không gian lớn hơn, nơi những người có ảnh hưởng đi trước và cùng thời như Phạm Phú Thứ, Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh. Đó là chưa kể đến các kiểm thảo chuyên biệt về các đóng góp trong thơ văn, dịch thuật, sử học, v.v. của Huỳnh Thúc Kháng. Về cơ bản, ông đứng ở văn hóa dân tộc, nghĩ về lợi ích cho dân. Làm được điều này trong điều kiện đầu thế kỉ XX, đi riêng một cõi, ông vay mượn các thành tố của văn hóa mới để bày tỏ và xác lập những chính kiến của mình, trong đó lựa chọn chữ Quốc ngữ đã mang lại những lợi thế to lớn. Từ chối quan chức, mang toàn lực trí tuệ và nhiệt huyết của mình để cổ vũ cho văn hóa, văn học, thương mãi, công nghiệp, v.v. lựa chọn của ông lộ rõ tính chất hoạt động của “xã hội công dân”, người trí thức Khổng giáo này đã đưa xã hội Việt vào tính hiện đại. Đó chính là đóng góp quan trọng của Huỳnh Thúc Kháng.
H.T.K
(TCSH344/10-2017)
---------------------
1. Bài viết ngắn gọn này với một kẻ đi sau, viết về một nhân cách lớn của dân tộc, là chưa tương xứng với tầm vóc. Tuy nhiên, đây là một đòi hỏi dài hơi, mang tầm mức lớn hơn về sau của tôi. Hai vấn đề lớn, tri thức bản địa, nhân sĩ trí thức Quảng Nam không thể gói gọn trong bất kì một ràng buộc hình thức nào trong lịch sử cận - hiện đại Việt Nam. Tuy vậy, những viên gạch đầu tiên vẫn phải hạ xuống mới có thể “xây cơ đồ”.
2. Huỳnh Thúc Kháng tự truyện, Anh Minh, Huế xuất bản năn 1963. In lại trong Huỳnh Thúc Kháng tuyển tập, do Chương Thâu và Phạm Ngô Minh sưu tầm và biên soạn, Nxb. Đà Nẵng, 2010, tr 1454.
3. Thuật ngữ này chúng tôi mượn từ nghiên cứu xuất sắc của Trịnh Văn Thảo trong Ba thế hệ trí thức người Việt (1862 - 1954), Nxb. Thế giới, 2013. Sự nghiên cứu xã hội học lịch sử về các thế hệ trí thức người Việt (1862 - 1954) trong các bối cảnh, Trịnh Văn Thảo đã chỉ ra ba thế hệ: Thế hệ 1862 - thế hệ trí thức cổ điển, thế hệ 1907 - thế hệ trí thức của hai thế giới và thế hệ 1925 - thế hệ trí thức Âu hóa. Huỳnh Thúc Kháng thuộc thế hệ thứ hai.
4. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, 2012, Nhóm dịch giả Bùi Thế Cường, Từ điển Xã hội học Oxford, mục từ Trí thức (intellectuals), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 570.
5. Dẫn theo Trịnh Văn Thảo, Sđd, tr18. Xem thêm thuật ngữ Xã hội học về tri thức của Jenö Kurucz, in trong Günter Endruweit và Gisela Trommsdorff, (Ngụy Hữu Tâm, Nguyễn Hoài Bão dịch), Từ điển xã hội học, Nxb. Thế giới, tr841-849.
6. Chương Thâu, Phạm Ngô Minh, Sđd, tr1301.
7. Những chỗ in đậm do chúng tôi nhấn mạnh, được coi như điểm đáng chú ý nhất của cuộc đời Huỳnh Thúc Kháng.
8. Nguyễn Thiệu Lâu, Ký ức về cụ Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng, In trong Huỳnh Thúc Kháng tuyển tập, Sđd, tr 1646.
9. Bài Biểu tạ, kết bản Thi tù tùng thoại. Nguyên văn chữ Hán, tác giả tự dịch ra quốc ngữ, như “tiểu sử về đời dĩ vãng 50 năm của tôi”. Xem thêm trong Chương Thâu và Phạm Ngô Minh, Sđd, tr952-967.
10. Vấn đề “nhân vật” ở xứ ta ngày nay, Tiếng dân số 627 ngày 27.9.1933. Huỳnh Thúc Kháng kí tên Tha Sơn Thạch. In lại trong Chương Thâu và Phạm Ngô Minh, Sđd, tr1178.
_______________
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Thế Anh (2008), Việt Nam thời Pháp đô hộ, Nxb. Văn học, Tp Hồ Chí Minh.
2. Nguyễn Thế Anh (2008), Phong trào kháng thuế ở miền Trung qua các Châu bản triều Duy Tân, Nxb. Văn học, Tp Hồ Chí Minh.
3. Berger, P, L. và Luckmann, T. (2015), (Nhiều người dịch), Sự kiến tạo xã hội về thực tại - Khảo luận về Xã hội học nhận thức, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
4. Sào Nam Phan Bội Châu (1998), Khổng học đăng, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
5. Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
6. Trần Văn Giàu (1993), Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb. Tp Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.
7. Trịnh Văn Thảo (2013) (Lê Thị Kim Tân dịch), Ba thế hệ trí thức người Việt (1862 - 1954), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
8. Nguyễn Q Thắng (1972) Huỳnh Thúc Kháng - con người và thơ văn, Phủ Quốc vụ Khanh đặc trách Văn hóa xuất bản, Sài Gòn.
9. Chương Thâu - Phạm Ngô Minh (2010), Huỳnh Thúc Kháng tuyển tập, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
10. Nguyễn Văn Xuân (1995), Phong trào Duy tân, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH