Đôi nét Thanh Tân

09:22 11/09/2009
NGUYỄN THẾTừ Huế, muốn đến khu nước khoáng nóng Thanh Tân, ta cứ theo Quốc lộ I ra phía Bắc, đi khoảng 20 km, tới cầu An Lỗ; qua cầu, rẽ trái theo tỉnh lộ 11, đi khoảng 12 km là đến. Còn nếu đi từ hướng Quảng Trị vào, đến km 26, rẽ phải vào cổng làng Đông Lâm thẳng theo con đường trải nhựa khoảng 7 km, gặp tỉnh lộ 11, rồi rẽ trái 1km.

Cảnh thiên nhiên hoang dã tuyệt đẹp ở Thanh Tân - Ảnh: tretoday.net

Nguồn nước khoáng nóng này đã có từ lâu đời, nằm bên cạnh Khe Nam, thuộc địa phận thôn Công Thành, xã Phong Sơn, huyện Phong Điền. Năm 1927, khi Bác sĩ Salet, người Pháp phát hiện giá trị của nguồn nước này, đã gọi đây là nước khoáng nóng Thanh Tân. Từ đó cái tên Thanh Tân trở thành một tên gọi chính thức trong hồ sơ nghiên cứu khoa học về nước khoáng nóng của quốc tế. Hiện nay, suối khoáng nóng Thanh Tân đã trở thành một thương hiệu nước khoáng nóng nổi tiếng không những ở trong nước mà còn được thế giới biết đến. Nhất là từ khi ở nơi đây xây dựng thành khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng.

Thanh Tân nguyên là tên gọi của một làng theo đạo Thiên chúa thuộc xã Phong Sơn (giáp với thôn Công Thành). Không biết chính xác xứ đạo này thành lập từ khi nào. Nhưng sách Đồng Khánh địa dư chí triều Nguyễn đã từng ghi nhận: phường Thanh Tân thuộc tổng Phò Ninh, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Người dân ở vùng này kể rằng: Ngày xưa, nơi xứ đạo Thanh Tân toạ lạc đầu tiên là ở Ồ Ồ, nay là xã Phong Xuân (giáp ranh với Phong Sơn). Về sau do lẫm thóc của nhà chung (tên gọi đối với nhà thờ Thiên chúa giáo) có một con rắn hổ mang rất lớn vào làm ổ. Sợ bị nhiễm nọc độc rắn nên các cha cố đã cho di dời về địa điểm nhà thờ Thanh Tân ngày nay. Xứ đạo Thanh Tân cũng từng là nơi gắn liền với tuổi thơ của chàng thi sĩ tài hoa mà bạc mệnh Hàn Mặc Tử. Sinh quán của Hàn Mặc Tử ở Lệ Mỹ, Đồng Hới, từ nhỏ đã vào sống với người thân ở Thanh Tân cho đến năm 14 tuổi. Khi người cha qua đời (1926), Hàn Mặc Tử lại theo gia đình vào Qui Nhơn. Thời kỳ đầu sáng tác, nhà thơ lấy bút hiệu là Lệ Thanh (tên ghép hai chữ đầu của quê hương Lệ Mỹ và Thanh Tân).

Qua khảo cứu tư liệu lịch sử vùng đất từ phía Bắc xã Phong Sơn đến xã Phong Mỹ, được biết rằng, các làng thôn quanh khu vực nước khoáng nóng Thanh Tân đã hình thành cách đây hơn 400 năm. Song khi nghiên cứu sâu hơn, ta mới hiểu được vùng đất này còn có một bề dày lịch sử hơn thế. Đây là nơi có dấu vết văn minh của loài người cách đây hàng ngàn năm. Những người làm công tác nghiên cứu lịch sử đã từng phát hiện các hiện vật cổ như: Rìu đá (ở Phong Sơn); chày nghiền (ở Phong Xuân), hai hiện vật này đều được Giáo sư Hà Văn Tấn, Viện trưởng Viện Khảo cổ học Việt Nam xác định là thuộc thời kỳ đá mới cách đây khoảng 4000 năm. Đặc biệt là chiếc trống đồng được tìm thấy tại bản Khe Trăng xã Phong Mỹ năm 1994 là một trống đồng thuộc nền Văn hóa Đông Sơn được phát hiện đầu tiên ở Thừa Thiên Huế. Trống có niên đại từ thế kỷ II đến I trước Công nguyên, cách đây khoảng hơn 2.200 năm. Trống đồng này hiện trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử và Cách mạng Thừa Thiên Huế.

Các triều đại phong kiến Việt Nam như nhà Trần, Hậu Lê cho đến triều Nguyễn, đều xem vùng này là vị trí chiến lược quan trọng. Nơi đây được mệnh danh là tuyến thượng đạo (hay sạn đạo), tức con đường hình thành ven chân núi nối liền Thừa Thiên và Quảng Trị. Theo phép dùng binh ngày xưa, chủ tướng cùng các đội binh tượng thường chọn con đường thượng đạo để tiến quân. Vì các nguồn sông suối ở trên con đường thượng đạo thường khô cạn, nên voi ngựa và quân lính luôn vượt qua dễ dàng hơn. Lịch sử thời Lê trung hưng đã từng ghi nhận cuộc tiến binh của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc khi vâng mệnh vua Lê vào đánh chúa Nguyễn năm Giáp Ngọ (1774). Đội quân này đã chia thành hai cánh: Một cánh theo đường Thiên Lý (nằm giữa làng Phước Tích - Mỹ Xuyên tiến vào; một cánh theo đường thượng đạo, đến làng Cổ Bi, vượt sông Bồ, rồi tiến về Phú Ốc, tạo thành thế gọng kềm đánh bại quân Nguyễn ở Bái Đáp (nay là làng Phú Lễ, xã Quảng Phú, Quảng Điền). Các cuộc giao tranh liên tiếp của các tập đoàn quân phong kiến thời đó phần lớn diễn ra ở Cồn Phân trận (khu vực Hiệp Khánh - Tứ Hạ huyện Hương Trà). Và đôi bên đều dàn quân trên tuyến thượng đạo của cả hai mặt Nam Bắc thượng nguồn sông Bồ. Những địa danh: Hồ Gươm, Khe Mài (Phong Xuân) Bến Cùng (sông Bồ)... cùng với các binh khí cổ như gươm, đao... mà người dân dò tìm phế liệu thường xuyên bắt gặp, chứng tỏ ngày xưa, nơi đây đã từng là vùng chiến địa ác liệt. Tôi chắc rằng, cuộc tiến binh thần tốc của Quang Trung từ Phú Xuân ra đánh quân Thanh ở Bắc Hà cũng đã sử dụng tuyến đường này.

Trong chiến tranh chống Pháp, vùng Phong Sơn, Ồ Ồ, Hòa Mỹ là địa bàn chiến lược quan trọng. Nơi đây quân Pháp đã tổ chức một hệ thống đồn bốt kéo dài ven núi từ Phong Sơn đến Phong Mỹ. Trong đó có các đồn: Sơn Quả, Thanh Tân, Ồ Ồ, Đất Đỏ... Năm 1947, quân và dân nơi đây đã làm nên một chiến công vang dội, đó là chiến thắng Đồn Đất đỏ ở Hoà Mỹ vào tháng 3 năm 1947. Mở đầu cho công cuộc xây dựng chiến khu Hoà Mỹ, tiếp tục kháng Pháp, dưới sự chỉ huy của đồng chí Hà Văn Lâu.

Trong chiến tranh chống Mỹ, Nơi đây từng là khu chiến sự ác liệt, nằm trong vùng “vành đai trắng”, “vành đai diệt Mỹ” Sơn - An - Nguyên (bao gồm các xã Phong Mỹ, Phong Xuân, Phong Sơn và Phong An). Dãy núi, và thung lũng phía sau lưng khu nước khoáng nóng Thanh Tân là căn cứ địa Cách mạng Thai - Trò - Trái. Đây là nơi đóng quân của các cơ quan chỉ huy Quân khu ủy Trị Thiên- Huế, các cơ quan lãnh đạo tỉnh cùng các huyện Phong Điền, Quảng Điền và Hương Trà. Tháng 4 - 1966, quân Mỹ mở chiến dịch dùng xe ủi, xe tăng càn quét, khai quang quanh vùng nước khoáng nóng Thanh Tân. Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân Nguyễn Bá Lai đã chỉ huy du kích xã Phong Sơn bắn hỏng 5 xe tăng M113, diệt 20 lính Mỹ. Từ căn cứ địa cách mạng Thai - Trò - Trái nối liền vùng Ồ Ồ, Hoà Mỹ, Phong Sơn, lãnh đạo Khu ủy, Tỉnh ủy đã chỉ huy quân và dân đánh thắng nhiều trận càn, đáng kể nhất là cuộc tổng tấn công nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) và sau đó là chiến thắng Đồng Lâm.

Sau mấy mươi năm chiến tranh, đến ngày giải phóng, vùng Phong Sơn chỉ còn trơ đồi hoang, kẽm gai và dấu vết cày xới của đạn bom. Người dân lại sánh vai nhau đi vào cuộc chiến đấu mới, phát cây, vỡ đất tìm lại những mảnh vườn xưa. Năm 1976, hàng ngàn thanh niên của hai huyện Phong Điền, Quảng Điền mở công trường khai hoang vùng đất Phong Sơn, Ồ Ồ, Hoà Mỹ.

Ước mơ của bao nhiêu năm trước nay đã trở thành hiện thực. Công trình thuỷ lợi Hồ Quao được xây dựng. Dòng nước mát Hồ Quao đã tưới khắp ruộng đồng Ồ Ồ, Hoà Mỹ, Phong Sơn.         

Và khu nước suối khoáng nóng Thanh Tân bốn mùa hoa nở cũng đã được nhiều người biết đến.

 N.T

(246/08-09)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Họ Nguyễn Tiên Điền của Nguyễn Du lừng danh như thế nào thì mọi người đã rõ. Nhưng gia phả họ Nguyễn này ở Tiên Điền thì cũng chỉ cho biết vị tổ khải tổ  là cụ Nguyễn Nhiệm (Nhậm), kế tiếp theo trực hệ là Nguyễn Đức Hành (Phương Trạch hầu) , Nguyễn Ôn, Nguyễn Thế, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nghiễm (Xuân Quận công) thân phụ của Nguyễn Du.

  • Văn hóa đình làng từng có một vị trí hết sức quan trọng trong cộng đồng người dân sống ở chốn kinh kỳ Thăng Long - Kẻ Chợ xưa kia. Theo thống kê, ở khu phố cổ hiện nay vẫn còn hơn 60 ngôi đình trong tổng số 112 công trình tôn giáo tín ngưỡng từng có tại đây. Số phận những ngôi đình đó giờ ra sao, trong thời buổi kinh tế “mặt tiền thành tiền mặt”?

  • LÊ THỊ MÂY

    1
    Hơn mười ba năm về trước, kỳ vừa ngưng bom đạn, thường từ sớm chủ nhật, tôi đã về quanh quẩn với phố đổ rậm rì cỏ dại. Nhiều lần đếm đi đếm lại, cũng chỉ còn sót có mười bốn cây dừa, thân bị băm kín miểng bom. Tàn lá xơ xáp, đỏ cháy.

  • PHẠM HỮU THU

    Đầu tháng tư năm nay, tôi mới có dịp trở lại Hải Vân, bởi từ khi có hầm đường bộ, xe cộ ít qua lại con đường đèo quanh co, đầy hiểm nguy nhưng có cảnh quan tuyệt mỹ này.

  • Ngoài một dung lượng văn hóa tộc người đủ thỏa mãn độc giả thì công trình Mọi Kontum(1937) của Nguyễn Kỉnh Chi và Nguyễn Đổng Chi còn là một văn phẩm tạo được sức lôi cuốn, hấp dẫn đặc biệt. Tham luận góp phần lý giải thành công của tác phẩm trên ba phương diện: Lối khảo tả chân phương mà thấu đạt, trí tuệ sắc bén mà vẫn hồn hậu và văn phong ấn tượng.

  • Chỉ 15 năm, như chớp mắt, hàng loạt các công trình hiện đại đã hùng hổ đẩy những biểu tượng cũ của Sài Gòn đi sâu vào trong quá khứ, biến chúng thành những tiểu cảnh.

  • INRASARA

    Khi mẹ la chị Hám: “Mi không biết hôm nay là ngày gì sao mà hốt thóc trong lẫm đi xay”, thì tôi biết ngay đây là ngày trăng hết harei ia bilan abih, ngày người Cham kiêng xuất hàng ra khỏi nhà.

  • Dù có thể không sinh ra trên mảnh đất này nhưng đã là người Việt Nam ai cũng cảm nhận được một Hà Nội của chúng ta từ sông Hồng đỏ nặng phù sa đến Hồ Gươm lung linh truyền thuyết, Văn miếu - Quốc Tử Giám thâm nghiêm... Và cũng xao xuyến nhận ra một cái gì đó rất Hà Nội, của Hà Nội, từ mùa thu se sẽ lâng lâng đến đêm nồng nàn hoa sữa, cơn mưa tìm về phố cổ với màn sương lan nhẹ mặt Hồ Gươm...

  • Chợ Gôi ở xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh có tự bao giờ? Câu hỏi thật khó và cũng chưa thể có câu trả lời đầy đủ. Mà cái tên nôm “Gôi” còn được dùng  để chỉ địa danh của nhiều nơi khác ở Việt Nam.

  • Vượt chặng đường hơn 50 km về hướng bắc, từ trung tâm thành phố Pleiku - tỉnh Gia Lai chúng tôi tìm đến làng Kon Solal ở xã Hà Tây, huyện Chư Păh - một trong vài ngôi làng nguyên sơ cuối cùng còn lại của đồng bào BaNa.

  • Đó là ngôi làng dưới chân núi Chư Mom Ray nhiều huyền thoại. Điều kỳ lạ là cả đứa trẻ 10 tuổi cũng nói được nhiều thứ tiếng, không chỉ tiếng của dân tộc khác, mà họ còn nói được tiếng Lào, Miên và những đứa trẻ được đi học thì tiếng Anh cũng không phải là ngoại lệ.

  • “Thất bại trước quân Triệu Đà tại Cổ Loa của An Dương Vương dẫn đến 1.000 năm Bắc thuộc là nỗi đau lớn của dân tộc Việt. Nhưng Cổ Loa không chỉ ghi dấu thất bại thiên thu. Mà đó còn là nơi Ngô Quyền chọn làm kinh đô ngay khi đại phá quân Nam Hán năm 938, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ của nước việt với triều đình phương Bắc. Và điều này đang bị lãng quên...”.

  • Chùa Tiêu Sơn (thường gọi là chùa Tiêu) - một danh thắng nổi tiếng và cũng là - trung tâm Phật giáo cổ xưa của Việt Nam.

  • Đền Quả Sơn ở Bạch Ngọc nay là xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương thờ Lý Nhật Quang. Ngài là con thứ tám của vua Lý Thái Tổ, được phong tước Uy Minh vương. Mùa xuân năm 1902, Nguyễn Sinh Cung  trên nẻo đường theo cha đi dạy học, thăm thú quê hương có đến chiêm bái đền Quả Sơn - một trong bốn ngôi đền linh thiêng nhất của tỉnh Nghệ.

  • Hát ví Sông La (tên gọi một làn điệu ví của Xứ Nghệ; cũng có thể hiểu là điệu ví ở sông La) tham luận này đề cập giới hạn những điệu ví ra đời, tồn tạị, phát triển ở vùng sông La, miền Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

  • Chùa Nền, phường Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội, được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông (1116–1138), bài trí thờ Phật và song thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh là ngài Từ Vinh và bà Tằng Thị Loan.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

    Những năm cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, ngành Dân tộc học Việt Nam nói chung và miền Trung Tây Nguyên nói riêng được các nhà khoa học, chính trị, bác sĩ của Pháp tiến hành nghiên cứu và công bố nhiều tác phẩm có giá trị.

  • (SHO) Cứ hễ nhắc tới miền Trung, mỗi người Việt Nam có thể mường tượng ngay ra trong đầu những vùng đất của thiên tai triền miên. Miền đất, nơi mà từ tấm bé cho tới khi lìa đời dường như đều gắn với con chữ nghèo và sớm sương mưa nắng lận đận mưu sinh.

  • (SHO) Vậy là tôi đã ở Miền Tây mênh mang sông nước! Tôi đã đặt chân lên bến Ninh Kiều Cần Thơ và ấp Mũi Cà Mau! Tôi đã đi tàu ca nô trên những con kênh, con lạch mà hai bên bờ mọc đầy những cây đước, cây tràm…

  • Huế xưa – nay, Huế của khúc ruột nước non, chứa đựng trong mình cả một bề dày lịch sử thông qua nét trầm mặc cổ kính của những lăng tẩm, cung điện, chùa chiền… Nhưng có lẽ ít ai biết, Huế vẫn còn ẩn chứa trong mình một A Lưới - vùng đất nổi tiếng với những phong cảnh thiên nhiên kỳ thú và trầm lắng nhiều giá trị văn hoá cổ xưa của cộng đồng các dân tộc thiểu số.