Đời hoa tình người, lẽ đời và những lời cảnh báo

16:09 08/09/2008
ĐỖ XUÂN NGÂNTôi hân hạnh được đọc tác phẩm Đời hoa, tập tản văn của nhà văn Nguyễn Khắc Phê do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành 1999.

Đời hoa gồm 41 bài viết ngắn, nắm gọn trong 164 trang văn, nhưng đối với tôi ý nghĩa hàm chứa trong từng đoạn văn, từng bài viết rộng lớn hơn nhiều. Trong đó có nhiều bài viết như là một truyện ngắn.
Tuy gọi là tản văn nhưng đa số tiểu phẩm đều có chủ đề tư tưởng rõ ràng. Lời văn tuy chân tình mộc mạc nhưng triết lý sâu sắc. Có lẽ đích tới của nhà văn nhằm nói đến tình người, lẽ đời và những lời cảnh báo khi xã hội đang trên đà phát triển.
Tác phẩm chia làm 2 phần:
Phần 1 với tiêu đề chung Chợt nghĩ bên đường gồm 33 bài viết về chuyện đời, tình người mà tác giả từng gặp gỡ và chiêm nghiệm, để rồi trực tiếp hay gợi ý người đọc rút ra những bài học bổ ích. "Bà già bên dốc Bến Ngự và những chuyến xe qua" kể về một bà già ăn xin thường được những người nghèo đi chợ về bỏ vào nón cho bà những đồng tiền lẻ, dốc cao người đi xe đạp phải xuống xe dắt bộ, cũng là dịp để họ biểu lộ tấm lòng nhân đạo. Nhưng đó là chuyện cũ, đến bây giờ thiên hạ chuyển lên đi xe máy, xe ô tô thì bóng dáng bà già teo tóp, ngồi ngửa nón ăn xin bên dốc Bến Ngự không còn nữa.
Người đọc cảm nhận phải chăng thiên hạ giàu lên thì tình thương đồng loại lại nghèo đi một ít?!
Bài "Ngày xuân bàn về tốc độ" nói về thời gian qua nhanh như "bóng câu qua cửa" hoặc "thấm thoắt thoi đưa". Con người cảm nhận thời gian qua nhanh, tự thấy nhiều việc phải làm mà chưa làm được. Vì thế nên có ước vọng tăng tốc để khỏi uổng phí thời gian. Ước vọng ấy thật là chính đáng; thế nhưng ở phạm vi nào đó, tốc độ cao còn có những mặt tiêu cực. Ví như: Đi xe tốc độ cao dễ gây ra tai nạn; những công trình làm nhanh, làm ẩu lấy thành tích, lấy lời cho đơn vị cho cá nhân dẫn đến không đảm bảo chất lượng, gây lãng phí tiền bạc của dân, của nước. Những loại tốc độ cao ấy xã hội cần lên án và có biện pháp hạn chế lại, phanh lại...
"Đời hoa" là tên tác phẩm và cũng là tiêu đề cho một bài viết. Trong tiểu phẩm này tác giả kể chuyện chuyến đi viết tại thành phố Đà Lạt: Ở phòng văn của khách sạn, hàng ngày có người mang đến một bông hoa rất đẹp, cắm trong chiếc bình nhỏ đặt trên bàn. Hoa đẹp nhưng chóng tàn, đời hoa ngắn ngủi. Cái còn đọng lại ở tác giả là tấm lòng của người trồng và người mang đến cho hoa thì sống mãi.
Cái đẹp vĩnh cửu vẫn là ở tấm lòng, người đọc suy ngẫm và thấm thía đạo đức truyền thống ông cha: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn...
Ở một bài khác, tôi nghĩ nhà văn phải có tấm lòng cao thượng mới viết lên được. Đó là: "Cây bưởi góc vườn" Cây bưởi hoang tự mọc lên ở góc vườn, theo thời gian lớn lên đơm hoa kết trái. Từ đó tác giả liên tưởng: "Tôi nhìn quả bưởi như đoá hoa trắng xòe nở trên bàn, lắng nhe tiếng trống của tốp múa lân "tùng, cắc tùng" dội vang giữa đêm trung thu, bất chấp trời mưa gió chợt nghĩ đến em bé vô gia cư, không rõ dòng giống nào đang lang thang trên các ngả đường hè phố. Biết đâu trong đó rồi sẽ xuất hiện những nhân tài"...
* Phần 2 với tiêu đề Còn lại với thời gian gồm 8 bài viết về những dịp tác giả tiếp xúc với người và việc có ý nghĩa lịch sử, văn hoá lâu dài. Ví như: Lãng mạn cùng đôi bờ sông Hương. Trải qua thời gian, thành phố Huế vẫn giữ được 2 bờ sông Hương với nét đẹp quý giá của thiên nhiên cũng nhờ ý thức văn hóa có cội nguồn được gìn giữ từ cha ông truyền lại. Tiếp đến, ngày nay có tiếng nói của các nhà văn, nhà báo góp phần, hai bờ sông Hương được tỉnh Thừa Thiên Huế quan tâm tôn tạo nên đã giữ mãi được nét "đẹp và thơ" "độc đáo, "không nơi nào có được" của nó.
Sức trẻ Hải Triều là bài viết mang nhiều yếu tố lịch sử. Tác giả kể ra những hoạt động cách mạng sôi nổi của Hải Triều từ trước Cách mạng tháng 8 -1945 từ hồi cậu học sinh Nguyễn Khoa Văn 19 tuổi cho đến những năm đầu chống Pháp. Ông sinh ngày 1-10-1908 và mất ngày 6-8-1954 tại một bệnh viện ở tỉnh Thanh Hoá. Tác giả viết: "Có thể mượn hình ảnh Triệu Tử Long tung hoành giữa rừng gươm đao để hình dung những hoạt động của Hải Triều thời trẻ". Và kết luận: "Hải Triều trẻ mãi là vì thế"...

Đời hoa bao gồm những bài viết mang tính tự sự, câu chuyện kể rất đời thường nhưng lại mang ý nghĩa giáo dục đạo đức phẩm chất làm người. Tác giả ca ngợi những tấm lòng ngay thẳng (Chuyện bên lề phim Tể tướng Lưu gù) hoặc đời sống thanh bạch của ông quan triều Nguyễn (Của để lại cho con cháu), phê phán những thói hư tật xấu, những hành vi tham ô hối lộ, quan liêu lãng phí gây thất thoát tiền bạc của nhà nước của nhân dân như (2,9 tỷ và 500), (Nỗi khổ của giám đốc trong ngày tết)... Tác giả còn chỉ ra những việc làm trái với quy luật tự nhiên như người đến tuổi nghỉ hưu nhưng không chịu nghỉ; những nhà máy nông trường chỉ toàn nữ, toàn nam được thể hiện trong (Quy luật của muôn đời; Như sừng có cặp như đũa có đôi).
Đời hoa
còn mang đến cho người đọc những suy nghĩ hướng thiện. Từng bài viết đều chứa đựng ý nghĩa nhân bản có tác dụng giáo dục lâu dài như bài: Thử bàn chuyện "sướng", "khổ", đã được tuần báo Văn Nghệ tái đăng trên chuyên mục Nhàn đàm, số 19 (11 - 5 - 2002).
Người xưa nói: Người làm sao chiêm bao làm vậy quả là đúng với nhà văn Nguyễn Khắc Phê, tác phẩm của anh như con người anh, lúc nào cũng cẩn trọng, mô phạm, văn anh viết rất giản dị đời thường. Cái đáng quý ở anh là tinh thần dũng cảm, dám chống lại cái ác, cái xấu. Với tác phong lao động cần cù, tác phẩm của anh chứa đựng nhiều tư tưởng có giá trị cao đẹp. "Đời hoa" là một tác phẩm như vậy.
Tôi quen biết anh từ thời chúng tôi còn trẻ, còn là sinh viên trường Đại học Giao thông. Anh cầm bút trên 30 năm, với 12 tác phẩm đã ra đời (trong đó có 7 tiểu thuyết).
Với bề dày hàng ngàn trang in và tuổi đời anh không còn trẻ, có lẽ mọi cái đã định hình, đã thành phong cách. Tôi nghĩ: ta không nên đòi hỏi gì hơn chỉ hy vọng và mong gặp lại anh ở những tác phẩm khác hay hơn.
Trường An, tháng 5 - 2002
Đ.X.N

(nguồn: TCSH số 165 - 11 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)