Đôi điều về đọc thơ, phê bình thơ qua một trường hợp cụ thể

08:52 04/09/2008
HỒNG NHULTS: Những cuộc trao đổi mang tính nghề nghiệp về thơ ở tầm "vĩ mô" dường như đang co lại ở tầm "vi mô". Các ý kiến khác nhau, thậm chí ngược nhau trong tranh luận học thuật là chuyện bình thường. Song, sẽ không bình thường khi công cuộc đổi mới của Đảng đã bước vào nền kinh tế tri thức mà vẫn còn những "tư duy thơ" theo cơ chế suy diễn với những mục đích gì đó, ngoài thơ.Nhằm rộng đường dư luận, Sông Hương xin được trao đổi lại một trường hợp cụ thể sau đây.


Tình cờ trong tay tôi có tờ báo Quảng Bình chủ nhật số 4493 ra ngày 21/7/2002 đăng bài "Hồn quê đọng giữa mây trời" (đọc tập thơ "Đám mây lơ lửng" (1) của Hoàng Vũ Thuật -HVT) của tác giả Tạ Đình Nam (TĐN). Đây là một trong số bài tham luận trong cuộc hội thảo do Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình tổ chức vừa qua trong dịp tập thơ này đoạt giải A Giải thưởng VHNT Lưu Trọng Lư của tỉnh Quảng Bình.
Sau khi đưa ra những nhận định thành công của tập thơ mà tập trung nhất là "tình cảm đặc biệt của Hoàng Vũ Thuật với làng quê, với bao kỷ niệm nơi chôn rau cắt rốn"... tác giả đã dành phần quan trọng để vạch ra những thiếu sót, khuyết điểm, một số điều cần bàn (chữ của TĐN).
Nhận thấy bài phê bình có nhiều điều không ổn, không được; tôi xin bàn tới những điều cần bàn đó.
1. Tạ Đình viết: "Quan niệm của nhà thơ đối với cuộc sống thực tại vẫn còn nhiều uẩn khúc. Đọc một số bài trong "Đám mây lơ lửng" nhiều lúc tâm hồn ta cảm thấy bâng khuâng một nỗi buồn đối với cuộc đời thực tại". Tác giả dẫn câu "Ta vô vi trong khói hương cầu nguyện" (Cây trần gian) và hạ bút: "Do ảnh hưởng nhất định của học thuyết vô vi nên có lúc nhà thơ có cái nhìn cái nghĩ đối với cuộc sống thực tại còn mang nặng tâm trạng bi quan, buồn chán, thiếu niềm tin".
Tôi thực sự giật mình, ngơ ngác tự hỏi thầm: tác giả nói gì vậy? nghĩ gì vậy? Hay là mình đọc nhầm? Không! Rõ ràng giấy trắng mực đen. Quái lạ! Tôi dở tập thơ của Hoàng Vũ Thuật đọc lại bài "Cây trần gian" 5 khổ mỗi khổ 3 câu. Và đây là khổ thứ hai: "Những giọt lệ từ lâu quên chảy/ Giờ theo cùng ánh sáng hoà tan/ Ta vô vi trong khói hương cầu nguyện"... Có thể "tự sự hoá" bài thơ như sau: Mùa Phật Đản 2540 (1996) nhà thơ đi xem lễ, nhìn thấy những ngọn nến cháy như từ lâu quên cháy, giờ ròng ròng như những giọt lệ, hoà tan vào bao nhiêu ánh sáng lung linh của đêm hội lễ chùa. Cả vầng trăng lấp ló sau cành hoa đại, trăng cũng hiện về như quá khứ chợt hiện về. Và nàng ở đằng kia thì lơ đãng, nàng chẳng nhìn thấy gì cả, niềm vui, nỗi đau, cùng sự xô đẩy của đám đông xem hội như vòng luân hồi xô đẩy... Nhà thơ thốt nhiên xao động, nghĩ về lẽ đạo, về cảnh đời, về tình người trong trần gian cuộc thế...
"Ta vô vi trong khói hương cầu nguyện", tôi nghĩ đây là một câu thơ vừa đúng tâm trạng vừa hay! Có gì đâu mà tác giả phê bình Tạ Đình nặng lời qui chụp: "mang nặng tâm trạng bi quan buồn chán, thiếu niềm tin"? Thiết nghĩ cái "vô vi" mà Hoàng Vũ Thuật nói ở đây là cái vô vi của cung bậc tình cảm, của sự giằng kéo con tim vì... nàng; không phải là học thuyết vô vi như Tạ Đình đã gán ghép một cách thô thiển. Đó là chưa nói trong bài của mình, Tạ Đình đã dẫn giải sai lệch về học thuyết vô vi. Anh viết: "Như chúng ta đã biết, vô vi là tâm điểm của học thuyết Trang Tử..." Không phải! Vô vi chính là học thuyết của LãoTử (tức Lão Đam), nhà tư tưởng cổ đại Trung Hoa (vào khoảng thế kỷ 5-6 trước Công nguyên). "Đạo Đức kinh" là tác phẩm triết học của Lão Tử. Nét nổi bật của học thuyết Lão Tử nêu trong sách này là: Nó có một số nhân tố duy vật luận và phép biện chứng thô sơ. Lão Tử thừa nhận sự tồn tại của thế giới khách quan với các hiện tượng khách quan; thế giới đó luôn vận động theo những quy luật khách quan. Lão Tử gọi đó là ĐẠO. Còn ĐỨC là tên gọi các khái niệm của sự biểu hiện đặc thù của ĐẠO trong từng hiện tượng cụ thể, ví dụ như lửa thì đức của nó là nóng và bốc lên cao, như nước thì đức của nó là mềm và chảy xuống chỗ thấp. Lão Tử tuyệt đối hoá tác dụng và tính phổ biến của quy luật khách quan rồi từ đó rút ra thuyết vô vi, thực tế là phục tùng, giao phó số phận cho những quy luật đó, phủ nhận và thủ tiêu mọi khả năng đấu tranh và sáng tạo của con người.
Còn Trang Tử (tức Trang Chu, 355 đến 275 trước Công nguyên) được coi là người kế thừa học thuyết Lão Tử, nên người đời sau thường gọi là "Học thuyết Lão - Trang". Hoa kinh là tác phẩm triết học của ông. Trang Tử đã hệ thống hoá sâu sắc phần chủ nghĩa duy tâm của Lão Tử, còn phần phép biện chứng thì ông hạ thấp nó xuống thành thuyết tương đối luận. Do thế, ông chủ trương mạnh mẽ với "chủ nghĩa xuất thế" (tức thoát tục).
Như vậy Lão, Trang tuy người ta vẫn gọi gộp nhưng vẫn là hai. Học thuyết của các ông có điểm giống nhau, nhưng lại khác nhau, không thể lẫn lộn. Xin lỗi, tôi phải nói dài dòng như vậy vì theo tôi, người viết phải biết tôn trọng người đọc và về một mặt nào đó, phải xem người đọc là thầy của mình. Bút đã sa xuống rồi thì rành rành rọt rọt, đừng có dại dột mà nói, viết lơ mơ; dẫn giải sai sót!
2.Tác giả bài phê bình còn dựa vào một số câu, một số đoạn trong các bài thơ khác rồi vận dụng nhận thức vừa khô cứng vừa tư biện của mình để phê phán, bất chấp đặc trưng, ngữ ngôn, thi pháp... của thể loại. "Một pho tượng tạc bằng nỗi cô đơn/ Giữa dòng người lạc lõng " (Ngã tư thánh đường). Chỉ có một chữ "cô đơn" trong câu mà tác giả lên án là "nhà thơ cảm thấy mình cô đơn trong dòng chảy cuộc sống"(!) Rồi: "Đời người bao nhiêu khổ hạnh/ Niềm vui một kiếp bèo trôi" (Thi sĩ đen) là "buồn chán thất vọng"(!) Đến: "Người ơi người hay trăng muộn/ Mọc xế góc đời ta đây/ Ta mong manh và lơ lửng/ Vô hồn giữa những đám mây" (Vầng trăng hiền thục) là "mất niềm tin vào con người" v.v... và v.v...
Thơ là tình cảm, là tâm trạng. Đã là tâm trạng thì mỗi người mỗi vẻ. Đưa nó vào nghệ thuật một cách chân thực, tất cả đều được cảm thông, đều được trân trọng. Có như thế mới đa dạng, mới phong phú và mới thơ! Không ai lại có thể dở hơi áp đặt tâm trạng của nhà thơ phải khuôn bó theo như tâm trạng của mình, càng không nên suy diễn chủ quan rồi rút ra kết luận vội vàng hoặc phiến diện. Cuộc sống thực tại giờ đây bên cạnh bao nhiêu sự tích anh hùng, bao nhiêu hành động cao đẹp của con người mới, của xã hội mới hướng tới tương lai rạng rỡ; còn có cũng bao nhiêu là tệ nạn, là tham nhũng, dối gian lừa lọc... có cả những sự việc, những vụ án khủng khiếp làm ta đau đớn tận tâm can. Nhà thơ lẽ nào lại không xông vào cuộc bằng ngòi bút của mình, lại thờ ơ hoặc lại chỉ tô vẽ bên ngoài? Sự đau buồn trong thơ là một vẻ đẹp hiện hữu, hơn nữa là một vẻ đẹp khách quan. Tôi nhớ một nhà thơ đã nói đại ý: "Một trong những quyền của thi sĩ là quyền được buồn!" Như vậy, đau buồn đâu phải là thứ tình cảm không nên, tình cảm lạc điệu với cuộc sống thực tại? Đôttôiepxki chẳng đã từng nói: "Cái Đẹp cứu rỗi thế giới" đó sao! Lẽ nào trong Cái Đẹp của Đôt lại không bao gồm cả vẻ đẹp của sự buồn đau? Các nhà thơ buồn đau, thậm chí thất vọng đi nữa cũng là để nói lên điều muôn thuở mà con người trong cuộc sống luôn mong hướng tới: niềm vui và hi vọng! Từ khi Đảng ta chủ trương sự nghiệp đổi mới đến giờ (trong đó có đổi mới văn học nghệ thuật), điều này chẳng còn là "vùng cấm", chẳng còn là lạ đối với đông đảo người đọc nữa, kể cả những người đọc bình thường...
Hoàng Vũ Thuật viết: "Cuộc sống quăng tôi lên phía trước/ Dù gai đâm buồn tẻ dành cho..." (Người đàn bà ngồi bên cửa sổ) hay một đoạn trong "Những đứa trẻ không quê" mà Tạ Đình Nam đã dẫn ra: "Tôi hỏi gió, gió lặng thầm bay đi/ Tôi hỏi sương, sương rơi ngoài cửa sổ/ Tôi hỏi sao đêm, sao đêm ngấn lệ/ Tôi hỏi ánh chiều, chiều xế bên sông"... thì rõ ràng đấy là phương hưóng, một phương hướng tích cực, không chịu lùi trước khó khăn; đấy là lời giải đáp, một lời giải đáp đầy tính nhân văn rồi! Vậy không biết vì sao và không thể nào hiểu nổi khi tác giả Tạ Đình lại nói ngược, lớn tiếng la lên là: "nhà thơ mất niềm tin, mất phương hướng, tự đi tìm nguyên nhân nhưng vẫn không có lời giải đáp!". Hoặc là Tạ Đình Nam muốn thơ phải trình bày phương hướng, lời giải đáp một là hai là... như trong văn kiện, hoặc anh không đọc khổ cuối của bài thơ trên đây: "Tôi nhìn ra bốn phía mênh mông/ Đồng trĩu phù sa nhà cao mái phố/ Và tôi bỗng thấy mình xấu hổ/ Khi xuân về cùng những đứa trẻ không quê"!.
Tác giả bài tham luận còn một nhầm lẫn quan trọng, nếu không muốn nói là tai hại, khi cho rằng "thời kỳ 1930-1932 là thời kỳ các nhà thơ mới ta đang lột xác, từ bỏ tháp ngà nghệ thuật của mình để tìm đường về với Cách mạng!" bởi vì theo anh "các nhà thơ mới bế tắc trong thế giới quan và phương pháp sáng tác! ".
Phong trào thơ mới Việt Nam xuất hiện từ 1932 trở về sau, mà một trong những người khởi xướng là Phan Khôi với bài "Tình già". Vậy thì từ năm 30,31 làm gì có phong trào đó để các nhà thơ mới bế tắc?
Thời kỳ 1930-1932 càng không phải là thời kỳ lột xác để tìm đường về với Cách mạng của các nhà thơ mới. Để khỏi làm mất thì giờ của bạn đọc, tôi xin phép không phải dẫn giải nữa. Trong tiến trình văn học Việt , đến các năm 1935,1936 phong trào thơ mới đã chiếm lĩnh trên mọi thi đàn, và là buổi cực thịnh của nó. Trong nhiều sách báo, kể cả các giáo trình văn học, đã có nhiều nhận định và phân kỳ về giai đoạn này, chúng ta có thể đọc bất cứ ở đâu.
Hoàng Vũ Thuật là nhà thơ trưởng thành trong chống Mỹ, cứu nước. Sáng tác của anh nở rộ và đi sâu vào các ngõ ngách của cuộc sống từ sau công cuộc đổi mới của đất nước. Trong giàn hợp xướng thi ca hôm nay, Hoàng Vũ Thuật đóng góp phần của mình bằng một phong cách riêng, giọng điệu riêng không giống ai! Đó là-theo tôi-trên cảm hứng tình yêu, nói cách khác là lấy tình yêu "anh và em" làm chỗ tựa, anh mở rộng ra và len lỏi vào các góc nhỏ, khuất của nhiều mặt cuộc sống: trời trăng sông biển, nhân tình thế thái, chuyện đạo chuyện đời... cả những ngày tháng cụ thể và những con số 1,2...thảy đều lấp lánh ý nghĩa tình người trong đời sống chẳng phải dễ dàng gì hôm nay. Thơ Hoàng Vũ Thuật có nhiều khi nhoè nghĩa, nhoè cả tứ (cái nhoè của ý tại ngôn ngoại), tạo nên một cảm giác lạ lùng, khắc khoải, day dứt khôn nguôi. Anh không hề bị ảnh hưởng hay "đồng điệu tâm hồn" (chữ của Tạ Đình ) với các nhà thơ mới thời tiền chiến. Sự đau buồn của lớp nhà thơ như anh khác xa một trời một vực với sự buồn chán bế tắc của một số nhà thơ mới thời trước. Tôi nói một số bởi vì hoàn toàn không đồng ý với cách nói vơ đũa cả nắm của Tạ Đình : "các nhà thơ mói bế tắc trong thế giới quan và phương pháp sáng tác."Các nhà thơ mới trứ danh như Thế Lữ, Phạm Huy Thông, Xuân Diệu, Huy Cận, Anh Thơ... với những tác phẩm như "Nhớ rừng", "Tiếng địch sông Ô", "Gửi hương cho gió", "Lửa thiêng", "Bức tranh quê" v.v...mà là bế tắc cả phương pháp cả cách nhìn à?
3. Một chi tiết trong phần kết của bài phê bình, tác giả Tạ Đình trở đi trở lại và nhấn mạnh: "nhà thơ (HVT) cô đơn, buồn chán, thiếu niềm tin để rồi đi tìm phương hướng giải thoát vào một thế giới khác".
Thế giới nào vậy? Anh suy ra làm tôi nghĩ mãi... Vô vi, Phật, Chúa hay thậm chí "tự giải thoát" bằng một phương tiện nào đó-chiếc cà vạt thay dây chẳng hạn-để rời cõi dương thế?... Tất cả đều buồn cười, đều oan uổng đối với một nhà thơ đầy trách nhiệm, đầy nhân bản với cuộc đời và đầy tình yêu mê đắm với con người như Hoàng Vũ Thuật!
Vậy thì cái gì đây? Tôi không tin là anh Tạ Đình quy kết Hoàng Vũ Thuật về chính trị. Điều này quá hoang đường! Song cái cách viết, cách nhấn của tác giả trong bài viết có dấu hiệu của sự biểu hiện ý định đó.
Nhân đây, tôi xin nói thêm một chút. Trong hai bài thơ... thất tình cuối tập "Đám mây lơ lửng" mà tôi cho là khá thành công, khá độc đáo của nhà thơ, đã bị tác giả bài báo phê: "nhà thơ cảm thấy bi quan về cả số phận tương lai của những đứa con tinh thần của mình". "Thơ chắp cánh cho tâm hồn bay lên chứ không bao giờ trở thành thanh gươm tự giết chết trái tim mình..."(!?)
Chúng ta hãy xem Hoàng Vũ Thuật viết ra sao: "Câu thơ như quả dại rừng sâu/ Như mái chèo bỏ sông đi biền biệt/ Như dòng chữ vẹo xiên vật vã cơn đau..." (Sao ngày xưa trăng tròn làm chi ) và: "Vì anh biết những bài thơ anh viết/ Là thanh gươm tự giết trái tim mình" (Những bài thơ anh viết).
Ôi! Đọc thơ như thế, phê bình thơ như thế... thì còn bàn luận với nhau làm sao được!

Tôi không hề có ý tranh luận hoặc trao đổi gì với anh Tạ Đình cả, tôi vốn rất không quen, thật lòng là rất ngại chuyện này. Nhận thức rằng giờ đây dân trí ta đã phát triển khá cao, xã hội và độc giả đối với văn nghệ chân chính đã từ lâu có con mắt nhìn xanh trong và ưu ái, chấp nhận tất cả những gì cần chấp nhận của các nhà thơ, miễn là trung thực và xây dựng. Đọc bài anh viết; chẳng đặng đừng, tôi phải nêu lên ý kiến của mình. Đó là lẽ thường tình vậy!
Huế, 31-7-2002.
H.N
(nguồn: TCSH số 163 - 09 - 2002)
-------
(1) NXB Hội Nhà văn - Hà Nội 2000

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.