Đọc thơ Phan Như: sống mà gặp nhau đã đẹp vô cùng

16:03 02/12/2008
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

Phải chăng, hiu quạnh là thuộc tính của con người. Vì dù muốn hay không thì trong cuộc phù sinh, ai rồi cũng có một lần hiu quạnh, mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết “Bên đời quạnh hiu”. Một trong những cách thể nhập vào cơn hiu quạnh là làm thơ. Cũng trong những lần nhìn ngắm hiu quạnh, thầy Phan Văn Chạy đã gửi tặng tôi tập thơ “Sóng vỗ mạn đời” với bút danh Phan Như. Hôm nay, đọc xong tập thơ để cảm nhận sự hiu quạnh mà tác giả đã trải nghiệm.
Ta nằm ngó dã tràng xe cát
Cũng xong rồi một kiếp loay hoay
Ta xếp giấy thả thuyền ngơ ngác
Nghe trong ta tan vỡ một ngày
(Sóng vỗ mạn đời)
Xác thân mỗi con người là một chiếc thuyền ngơ ngác giữa biển đời, và khi cảm nghiệm được thời gian tức là cảm nhận được sự tan vỡ trong từng khoảnh khắc giữa chốn đời mà hư vô đang chế ngự. Để rồi ước vọng được Hoá thân, khi:
Sống giữa đời mất mát
Mà thèm một cuộc hoá thân

Thật ra, tác giả đã có nhiều cuộc hoá thân, mỗi bài thơ là một sự thể nhập của tâm hồn và mỗi bài thơ như là thần chú để được hoá thân:
Tôi cầm một đoá liên xanh
Ôi bàn tay em công chúa
đã hóa thành một cánh chim
màu trắng
(Sen Tịnh)
Sự hoá thân còn được thể hiện:
Tôi là con ve sầu
ra đi vội vã
Như đã hẹn muôn đời
bên cây đời mới trỗ
Tôi lại về treo chiếc áo màu nâu
(Ve sầu)
Tùy căn nghiệp mà trong hành trình hoá thân của mỗi phận người thế này, thế khác. Nhưng trong hành trình đó, nỗi ám ảnh lớn nhất là hư vô mà dù muốn hay không mỗi người đều phải giáp mặt:
Ta ném thân ta vào giữa cuộc đời
Cuộc đời rơi ảo mộng
Ta trông ta chờ ta thương ta hận
Xây một lầu đài mơ cuộc tỉnh say
Mai kia nằm xuống
tia nắng hồng có viếng mộ tàn phai
(Ném cuội lên mây)

Dù trong cơn tuyệt vọng thường trực của đời người, nhưng thoáng chốc hy vọng một tia nắng hồng vẫn xuất hiện. Cuộc hành trình cảm nghiệm sự hiu quạnh, thi sĩ đã rút ra được chân lý:
Nào có can chi đời hữu hạn
Sống mà gặp nhau đã đẹp vô cùng
Vì thế mỗi cuộc hạnh ngộ cũng là niềm chân thật đã được tạo hoá đạo diễn:
Đời không chi bằng có bạn bè

Cạn ly đời ta đập vỡ hư không
Có chi đâu ngoài niềm chân thật
Và sự chân thật được thể nghiệm qua:
Năm năm mắt vẫn xanh màu biếc

Nhát chém còn đau thấu tận lưng

Tôi sống dù muôn nghìn chua xót
Vẫn một phương trời Quán Thế Âm
(Năm năm mắt vẫn xanh màu biếc)
Là một người Huế, làm thơ, mà lại là thầy giáo nên những hình ảnh thân thương của Huế đã xuất hiện trong tác phẩm:
Cô bé khi không vào quán học bài
Tôi pha cà phê thêm vào chút gió
Hay
Anh đứng ngó vô sân trường đại học
Nghe trong hồn ngày tháng xanh rêu

Bây giờ, hình ảnh thiếu nữ đội nón, đi guốc không còn nhiều trên các nẻo đường xứ Huế. Không phải do trên thị trường không còn có nón lá và guốc, mà do thế hệ sau này không có sự gắn kết văn hoá với thế hệ trước. Điều này do xã hội tạo nên và một phần không nhỏ là do trách nhiệm mỗi gia đình, và những tiếng gọi nhân bản của tác giả:
Và anh sẽ đưa em về khắp mọi miền
Xin cho trẻ con từng đôi guốc mộc
Lột da làm giày thú rừng đau xót
Khi gót chân hồng
không còn bó chặt
Em sẽ nghe đời vỗ nhẹ cánh chim
(Guốc vông)
Trong bài Nón có đoạn:
Tôi xin đan một vòng tay ngàn xanh
để em che nụ cười xa vắng
Đời đi qua một ngày gió động
quai tình tôi buộc nắng mưa

Đất Huế là trung tâm Phật giáo, vì thế mà mỗi người đều ảnh hưởng cái không khí rất trang nghiêm mà lại rất gần gũi, và cho dù muốn Bỏ vợ đi tu, nhưng:
Ra đi đâu phải là chia tay
Em độ giùm tôi một kiếp này
Và có lẽ tác giả đã chợt nhớ, “tu đâu cho bằng tu nhà...”, nên đã có Nịnh vợ ca ra đời để xin được buộc một gót chân chim, giữa hai đầu nắng nhạt:
Em giăng hai đầu nắng nhạt
buộc một gót chân chim
Cuộc đời chỉ là một cái tên, tại sao không thể gọi nhau bằng lời tha thiết:
Ai gọi tôi giữa đời tha thiết
Tôi chỉ là một cái tên
...
Ván ăn thua không cần mặc cả
Tan cuộc rồi ta xoá dấu chân đi
(Tôi đi qua nhà em bằng đôi cà khêu)
Đọc những câu thơ trên tôi chợt nhận ra sự hiu quạnh chính là nỗi cô đơn của tác giả, dù đã biết rằng rồi một ngày nào đó sẽ Giã biệt Tinh Châu, nhưng:
Mai kia dưới chân trời xa ngái
Thương nhớ bạn bè ngày tháng cùng nhau.
Thơ Phan Như là tâm sự của chính tác giả với dòng sống đang trôi, mà mỗi thời khắc đã ghi dấu vào tâm hồn thi sĩ một vết xước, để cơn đau hình thành những câu chữ chân tình.
L.H.L

(nguồn: TCSH số 237 - 11 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.