Đỡ đạn từ chiến hào kinh điển

09:45 09/07/2018

NGUYỄN THANH VIỆT  

Nguyễn Thanh Việt là nhà văn gốc Việt đoạt giải văn chương Pulitzer, tác giả của “The Sympathizer,” “The Refugees,” và “Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War.” Ông hiện là giáo sư Anh văn tại Đại học Nam California (Mỹ).

James Joyce và William Shakespeare là hai cột trụ của văn học kinh điển phương Tây. (Chân dung của Joyce: Lipnitzki/Roger Viollet/Getty Images; chân dung Shakespeare: Library of Congress, Prints and Photographs Division)

Vào năm 1992, năm đầu làm nghiên cứu sinh Tiến sĩ, ngồi trước Trưởng khoa Văn học Anh, một người nổi tiếng bênh vực chủ nghĩa văn hóa Mỹ [Americanist], tôi bày tỏ ý định viết một luận án về văn chương Việt Nam và văn chương Mỹ-Việt. “Anh không thể làm điều này,” ông ngăn cản, tỏ ra ái ngại về tham vọng của tôi là muốn dạy học ở một phân khoa Anh văn. “Anh sẽ không kiếm được việc làm đâu”. Vì ngay cả vị giáo sư đỡ đầu của tôi, một người theo chủ nghĩa Marx, cũng đồng ý với ông trưởng khoa, tôi đành đi theo một lộ trình an toàn hơn và viết một luận văn về văn học Mỹ gốc Á (Asian American literature), một ngành trong đó một số người đã vào được ngạch giáo sư đại học.

Tuy nhiên, đây không phải là một con đường dễ dàng, như một học giả gốc Mễ từng nói với tôi bằng giọng hằn học: “Chúng ta phải đọc văn chương của họ, song họ không cần đọc văn chương của chúng ta.” Ông muốn nói rằng chúng tôi, thuộc thiểu số, sẽ phải luôn luôn tìm hiểu tư duy của đa số, một ân huệ mà phe đa số biết chắc họ không cần phải đền đáp. Sự hiểu biết này đồng nghĩa với bản năng sinh tồn của người thiểu số. Thái độ không thèm biết đến điều này là cách biểu hiện đặc ân dành cho phe đa số.

Tôi thấy mình nghĩ lung trở lại về những năm tháng ấy, vì, theo một cách nào đó, trận chiến kéo dài nhiều thập niên, về những giá trị cần được đưa vào chương trình văn học kinh điển, vẫn bừng bừng tiếp diễn. Mặt trận mới nhất là tại Đại học Barnard, thành phố New York, nơi một số sinh viên văn chương Anh muốn thấy một sự đa dạng lớn hơn trong chương trình học của họ. “Sau nhiều năm kinh nghiệm, tôi muốn nói ‘tội nghiệp’ cho những sinh viên ấy”, bà Ann Lake Prescott, một học giả cao cấp và là giáo sư danh dự bộ môn Anh văn, đã phát biểu với tờ báo của đại học này. “Để hiểu được nền văn học về sau, các bạn cần phải đọc một số tác phẩm của Shakespeare, Milton, Tennyson trước đã. Đây là vốn liếng cơ bản cho một sinh viên văn chương Anh. Phần thô bạo trong trí óc tôi muốn nói ra điều này: “Nếu bạn không thích như thế, đừng theo đuổi Văn chương Anh”. Nhiều giáo sư thường cho rằng nếu không giảng dạy những điều cơ bản của văn học Anh được bổ túc bằng văn học Mỹ, thì chắc chắn là sinh viên không thể hiểu được một số tác phẩm hiện đại.”

Tư duy “thô bạo” này đang ồn ào hơn bao giờ cả trong văn hóa Mỹ hiện nay. Sự trỗi dậy của óc bài ngoại chống người nhập cư và chống người tị nạn bên cánh hữu đã tìm thấy một sự tương đồng trong các đả kích nhắm vào “chính trị bản sắc” [identity politics] bên cánh tả. Cánh hữu đổ lỗi người nhập cư, người nước ngoài, và các nhóm thiểu số về sự suy đồi văn hóa và kinh tế của nước Mỹ. Cánh tả cũng đổ lỗi những nhóm người này vì họ nhấn mạnh quá nhiều về bản sắc văn hóa của mình, một đòi hỏi bị cho là gây ác cảm với một số người da trắng, làm sao nhãng nhu cầu tập trung vào vấn đề bất bình đẳng xã hội và, trong giáo dục đại học, đe dọa nền văn học kinh điển. Họ xem những người như tôi và các sinh viên Đại học Barnard nói trên, những kẻ muốn đọc nhiều loại văn chương khác nhau, là “bọn man rợ” đang đứng trước cổng thành, là các nhà cung cấp dạng “chính trị bản sắc” này.

Nhưng những than phiền nói trên đã bỏ qua một loại “chính trị bản sắc” nguy hiểm nhất: chính trị bản sắc da trắng [white identity politics], một loại hình luôn luôn tồn tại với chúng ta. Trừ một điều, trước đây nó không bao giờ được gọi bằng thuộc từ “da trắng”, vì dù không nói ra, chính trị Mỹ đã là chính trị da trắng gần như suốt chiều dài lịch sử nước này. Điều thay đổi là, các đòi hỏi ngày một gia tăng “của bọn rợ” đã làm cho thuộc tính da trắng [whiteness] nổi bật hơn, nhất là đối với chính người da trắng. Vì thế không lạ gì, điều này phần nào đã biểu hiện như một cuộc tranh luận về các tác phẩm văn học kinh điển.

Tôi trưởng thành trong cái gọi là các cuộc chiến tranh văn hóa vào cuối thập niên 1980 và thập niên 1990, khi các cuộc tranh luận về những tố chất tạo nên văn hóa Mỹ và phương Tây đang thu hút sự chú ý cả nước. Ở trung tâm của cuộc đấu tranh này là các tác phẩm kinh điển của văn học phương Tây, một loạt các nhân vật từ Homer đến Joyce. Các nhà cải cách [Reformers] không tranh cãi là các tác phẩm kinh điển phương Tây cần phải tồn tại trong chương trình văn học, song họ đòi hỏi thêm không gian cho các tác phẩm của nữ giới, người da màu, giai cấp công nhân, người đồng tính và người không có gốc châu Âu [non-white]. (Trong khi các nhà cách mệnh [revolutionaries] lại muốn hủy bỏ các tác phẩm kinh điển và luôn cả khái niệm “các tác phẩm lớn”). Trái lại, các học giả E.D. Hirsch và Allen Bloom tranh luận rằng nếu phần cốt lõi của các tác phẩm lớn không phải là các tác phẩm kinh điển phương Tây, thì các giá trị phương Tây - và sự cố kết của chính nước Mỹ - sẽ bị bào mòn. Vào cuối thập niên 90, các cuộc chiến [văn hóa] này có vẻ được dàn xếp xong, với chủ nghĩa đa văn hóa [multiculturalism] có vẻ thắng thế, dù nó chỉ biểu hiện dưới dạng một “môn đa văn hóa trong chương trình học” [a diversity requirement] bắt sinh viên phải đọc [tác giả châu Phi] Chinua Achebe và Kinh thánh Koran cùng với các “tác phẩm kinh điển” chính thức.

Nhưng cũng như nhiều cuộc chiến khác, cuộc chiến văn hóa nói trên để lại một hậu quả lâu dài, và thậm chí có lẽ đưa đến một cuộc đổi mới.

Tôi vào Đại học California tại Berkeley năm 1990, đã thấy ngờ ngợ rằng tôi là một trong “những tên man rợ” đang đe dọa văn hóa phương Tây. Trước đó tôi theo học một trường trung học ưu tú, gần như hoàn toàn da trắng tại San Jose. Tôi là một trong thiểu số học sinh gốc châu Á của trường. Chúng tôi biết mình khác biệt với số đông. Mỗi ngày vào giờ ăn trưa, chúng tôi đàn đúm nhau ở một góc sân trường và tự gọi mình là “cuộc xâm lăng của người châu Á”. Tôi chuẩn bị để trở thành kẻ tôi đã trở thành tại Berkeley - một người Mỹ châu Á [an Asian American]. Từ ngữ này được các sinh viên cấp tiến Berkeley nặn ra năm 1968. Trước đó, trong khả năng tốt nhất chúng tôi là “người phương Đông”, trong khả năng xấu nhất chúng tôi là “họa da vàng”, bị loại ra khỏi văn học cổ điển phương Tây trừ khi các khẩu đại bác phương Tây đặt chúng tôi vào tầm ngắm. (Đối với những con mắt chỉ thấy tất cả mọi người châu Á thảy đều giống nhau, thì sự thể người Mỹ châu Á không hẳn là người châu Á cũng chẳng có nghĩa lý gì đối với họ: tất cả chúng tôi đều là người nước ngoài, chẳng ăn nhập gì nơi đây.)

Tôi là con cháu của Caliban, nhân vật [hư cấu trong các sách khôi hài] học được tiếng nói của người chủ, kể cả cách chửi thề bằng ngôn ngữ đó. Song, sự say mê của tôi đối với tiếng Anh và văn học cổ điển phương Tây là rất sâu lắng. Ở đại học, là sinh viên Anh văn, tôi đọc nhiều tác giả cổ điển Hi Lạp, Chaucer, Shakespeare, một số khá nhiều các thi sĩ Lãng mạn và các nhà văn thời đại Victoria, cộng với một khối lượng đáng kể văn chương Mỹ. Tôi không bao giờ nghĩ đến việc trở thành một học giả về văn học Anh. (Làm sao tôi có thể về nhà với bố mẹ Việt Nam của mình, những người phải làm việc quần quật 12 đến 14 giờ một ngày trong cửa hàng thực phẩm, và nói rằng tôi muốn học Jane Austen hay Lord Byron?) Nhưng tôi có thể thích thú học văn chương cho đến khi tôi, nếu cần, phải vào trường luật và bắt đầu một cuộc sống vô vọng âm thầm.

Sau đó, tôi cũng theo học ngành nghiên cứu các nhóm thiểu số. Tôi tìm thấy có một mảng văn học Mỹ gốc Á, bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19. Tôi cũng tìm thấy văn học Mỹ-châu Phi, bắt đầu bằng những truyện kể của người nô lệ. Rồi còn có một mảng văn học Mỹ gốc Mễ [Chicano literature], nó giúp tôi hiểu nhiều hơn ý nghĩa của việc lớn lên tại San Jose, với người bạn chí thân tên là Jesus; văn học Mỹ bản địa [Da đỏ] nhắc nhở chúng ta rằng Giấc mơ Mỹ được khai sinh bằng một cuộc diệt chủng: văn học hậu thuộc địa [Mỹ] giúp tôi nhận thức rằng bản thân tôi cũng là hậu thuộc địa, sinh ra tại Việt Nam, một nước từng ở dưới ách thuộc địa của Pháp; và văn học của phong trào tranh đấu nữ quyền đưa tôi vào con đường tôi còn đi hôm nay, là cố tìm hiểu chế độ gia trưởng và trọng nam khinh nữ đã ảnh hưởng lên tôi sâu sắc như thế nào.

Chỉ sau khi tiếp cận với những mảng văn học nói trên - không có mảng nào là ‘kinh điển,’ cho dù chúng có một số tác phẩm “lớn” đối với tôi - tôi mới nghĩ rằng tôi có thể học hậu cử nhân [the graduate school] và theo đuổi chương trình Tiến sĩ Anh văn, nơi đó tôi mưu tính làm rạng rỡ bố mẹ tôi theo cách riêng của mình bằng cách viết về văn học Việt Nam và Mỹ - Việt. Vị trưởng khoa đã triệt hạ tham vọng đó của tôi. Sự thiếu trung thành đối với văn học cổ điển phương Tây (mà đề xuất luận văn của tôi rõ ràng không đả động tới) có nguy hại cho viễn ảnh kiếm việc làm của tôi sau khi tốt nghiệp, vì ngay cả lúc đó, chính trị bản sắc [identity politics], như thường được mệnh danh không bao lâu sau đó, là một đe dọa đối với chương trình đại học khắp cả nước.
 

W.E.B Du Bois: “Đấy là một cảm thức kỳ quặc, một ý thức kép, ý thức luôn luôn nhìn thấy mình qua mắt người khác, đo đạc tâm hồn mình bằng thước đo của một thế giới đang nhìn mình bằng thái độ khinh thị và thương hại thú vị. Người ta thường xuyên có ý thức về lưỡng tính [two-ness] của mình - một người Mỹ, và một người Da đen”.

Sự ra đời của “chính trị bản sắc” trong tất cả những năm tháng ấy đã mang lại phản ứng dữ dội bằng một sự khẳng định công khai về chính trị bản sắc da trắng [white identity politics]. Ở Donald Trump, chính trị bản sắc da trắng đã tìm thấy một vị tổng thống đầy thiện cảm. Chính trị bản sắc da trắng được trang bị bằng súng tự động AR-15 và một cảm thức oan ức do lần đầu người da trắng hiểu được những gì W.E.B. Du Bois nói về trải nghiệm của người Mỹ-châu Phi [Da đen] vào đầu thế kỷ 20: “Đấy là một cảm thức kỳ quặc, một ý thức kép [double-consciousness ], ý thức luôn luôn nhìn thấy mình qua mắt người khác, đo đạc tâm hồn mình bằng thước đo của một thế giới đang nhìn mình bằng thái độ khinh thị và thương hại thú vị. Người ta thường xuyên có ý thức về lưỡng tính [two-ness] của mình, - một người Mỹ, một người Da đen.”

Đối với người da màu, ý thức kép là bản tính thứ hai, là cái mà chúng tôi trải nghiệm hàng ngày, một cái gì nhắc nhở tôi bất cứ khi nào tôi là người duy nhất không có gốc châu Âu [nonwhite] xuất hiện trong một môi trường hàn lâm hay văn chương, một việc thường xảy ra. Nhưng có quá nhiều người da trắng không quen với ý thức lưỡng tính này, với việc thấy mình vừa là một người Mỹ (hay một người châu Âu) vừa là một người da trắng. Ý thức về đặc quyền được nằm trong khối đa số là hoàn toàn vắng bóng trong chương trình giảng dạy truyền thống về các tác phẩm lớn, và các chủ đề liên quan thường không được các nhà văn nhận ra qua hàng thế kỷ - những nhà văn này vốn xuất thân từ khối đa số trên quê hương mình.

Một số người da trắng chấp nhận sự nổi bật của mình đồng thời dành chỗ cho những tiếng nói khác; trong số đó có nhà nghiên cứu quá cố Emory Elliott, một học giả Văn học Mỹ có cuốn sách ông biên tập “The Columbia History of the American Novel” bàn về các tác giả “cổ điển” cũng như các tác giả bị dìm, bị bỏ qua hay bị quên lãng, những tác giả tạo nên tính phức tạp rộng lớn của văn học (và văn hóa) Mỹ. Nhưng sự chiếu cố này làm cho các người da trắng khác cảm thấy bị đả kích - và đe dọa bị xóa sổ. Chính những người này là thành phần Trump muốn nhắm tới khi ông nói, trong bài diễn văn nhậm chức của mình, “Các bạn sẽ không bao giờ bị bỏ qua một lần nữa.” Những người tin rằng họ đang bị quên lãng vì sự ưu đãi dành cho các nhóm thiểu số không chỉ là những giáo sư Anh văn đã nói, “Nếu anh không thích điều đó, đừng theo học Anh văn.” Mà còn là những người đã nói, “Nếu không yêu nước Mỹ thì hãy rời nước Mỹ.” Phiên bản của họ về việc bảo vệ các tác phẩm kinh điển tự phơi bày qua việc xây bức tường biên giới và trục xuất người ta.

Song, thật quá trễ tràng để đuổi hết chúng tôi về nước. Sở dĩ chúng tôi có mặt nơi đây là vì người da trắng đã sang bên đó, xâm lăng - xin lỗi, khai hóa - đất nước cội nguồn của chúng tôi. Những người Mỹ con cháu của người Việt, của người di dân Nicaragua không có giấy tờ hợp lệ và của những người nô lệ châu Phi không thể từ bỏ tiếng Anh của mình. Trong trường hợp của tôi, tôi say mê tiếng Anh và tôi quyết không từ bỏ nó, cho dù một số người dùng tiếng Anh để nói, “Mày hãy về xứ sở mày đi.” (Họ không thể nói “Mày hãy nói tiếng Anh,” vì đó là môn tôi giảng dạy.) Tôi viết sách với hi vọng rằng một ngày nào đó những người như tôi sẽ là thành phần của văn học kinh điển, cho dù những người bảo vệ thành trì này không bao giờ muốn chào đón chúng tôi. Chúng tôi không hề phá bỏ điều gì thông qua việc đòi gia nhập vào dòng văn học kinh điển hay vào chương trình giảng dạy hay vào đất nước này. Những kẻ xây dựng tường thành là những kẻ đã để cho sự sợ hãi của mình hủy hoại những gì họ mong muốn gìn giữ.
 

Nhà văn Saul Bellow đang chăm chú xem những kệ sách cũ (Kevin Horan/The LIFE Images Collection/Getty Images)
Một cảnh từ Truyện Genji của Murasaki Shikibu. Kích thước và thủ pháp của mảng tranh này cho thấy nguyên nó là một phần của một cuốn sách cuộn tay [handscroll] nằm trong một bộ gồm sáu đoạn từ Chương 10 của truyện. (The Metropolitan Musium of Art/Roger Fund, 1912)

Và đây là những điều mà phần thô bạo trong đầu óc tôi muốn nói ra. Các pháo thủ của thành trì văn học kinh điển phương Tây luôn luôn tuyên bố rằng không cần đòi hỏi sinh viên phải đọc những nền Văn học khác, vì chúng không có giá trị tương đương. Chúng tôi chỉ là thổ dân, tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai. Các pháo thủ này sẽ đồng ý với Saul Bellow khi ông nói: “Ai là Tolstoy của người Zulu? Proust của người Papua? Tôi sẽ vui vẻ đọc ông ta?” Ta hãy quên đi việc Bellow đưa ra một lựa chọn sai lầm giữa văn hóa và tình trạng hỗn mang, hay việc ông ta làm rối rắm vấn đề bằng cách gợi ý về những văn hóa truyền khẩu thay vì những văn hóa từ chương. (Và có gì nguy hiểm lắm không khi học hỏi nhiều điều từ những nền văn hóa cực kỳ khác biệt vốn không trân trọng chính những điều chúng ta trân trọng?) Tại sao chúng ta không đọc “Truyện Genji” của Murasaki, “Hồng Lâu Mộng” của Cao Xueqin [Tào Tuyết Cần] hay “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tất cả những tác phẩm ấy có trước cả Tolstoy và Proust?

Nhưng Bellow cũng không nắm bắt được điểm này, đấy là các nền văn hóa đã sản sinh những tác phẩm kinh điển vĩ đại cũng sản sinh ra chế độ nô lệ rộng lớn và tiến trình thực dân giết hại hàng triệu người. Cả Shakespeare và các vụ tàn sát đều nằm trong Thời đại Khai sáng. Liệu chúng ta có thể nhận ra cả hai khuôn mặt này của thời hiện đại hay không? Chắc chắn là không nếu chúng ta chỉ đọc Shakespeare.

Chúng ta phải đọc cả Shakespeare lẫn các tác giả phụ nữ, Ả rập, Hồi giáo, đồng tính luyến ái. Đại bộ phận thế giới không phải là của người da trắng hay châu Âu, và Hợp Chúng Quốc có thể là một nước trong đó người da trắng trở thành thiểu số vào giữa thế kỷ này. Người da trắng sẽ hưởng lợi nhiều bằng cách chấp nhận thực tế này hơn là chống lại nó. Về văn học, não trạng muốn biến các tác phẩm kinh điển thành chiến hào để bảo vệ một phương ngữ của tiếng Anh cũng chẳng khác gì não trạng đóng cửa biên giới, đặt hàng rào thuế quan và tuyên chiến mậu dịch để bảo vệ hàng hóa quí và tố chất trắng đang lâm nguy của mình [besieged whiteness]. Nhưng văn học, cũng như kinh tế, trở nên tàn tạ khi nó tự cô lập mình với thế giới. Dẫu sao, thế giới vẫn lù lù đi đến với chúng ta. Nó đòi hỏi chúng ta phải biết cả chính mình lẫn Kẻ khác.

Trần Ngọc Cư dịch
Nguồn: https://www.washingtonpost. com/2018/05/03   
(TCSH352&SDB29/06-2018)

------------------
Ghi chú của dịch giả:
* Cannon fodder (bia đỡ đạn) và canon fodder là hai từ đồng âm, trong đó canon là các tác phẩm kinh điển. Thiển nghĩ tác giả đang chơi chữ, chúng tôi dịch theo âm vừa dịch theo chữ.  






 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...

  • ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.

  • PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.

  • BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...

  • NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.

  • PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG    Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.

  • PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...

  • Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.

  • TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.

  • KEVIN BOWEN
    (Giám đốc WJC)

    LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.

  • NGUYỄN BÁ CHUNG

    Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.

  • VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.

  • NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).

  • PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.