Đi trong mưa ngâu cùng nhà văn Hồng Nhu

15:03 30/10/2008
BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

Tôi thích Đi trong mưa ngâu, trên sông nước cùng nhà văn Hồng Nhu bởi bây giờ vì công việc giảng dạy và nghiên cứu văn chương đương đại Việt Nam buộc phải đọc để biết, quá nhiều những tình dục, bạo lực và những hang cùng ngõ hẻm đầy rác rưởi trong văn của thế hệ 7X và 8X. Đi trong mưa ngâu cùng nhà văn Hồng Nhu để cùng ông chiêm nghiệm cuộc đời và rất có thể được di dưỡng tâm hồn mình bởi cái đẹp thanh cao, trong sáng. Đi trong mưa ngâu, tên một truyện mở đầu tuyển tập thể hiện lối viết của một nhà văn trải nghiệm, lịch lãm và bặt thiệp. Tôi thấy, ánh lên trong truyện ngắn Hồng Nhu sự từng trải và sự tinh tế. Cũng phải nói thêm rằng sự trải nghiệm, lịch lãm trong cuộc đời thì rất có thể anh và tôi hoặc ai đó bước qua “ngũ tuần” là kha khá lưng vốn nhưng tinh tế trong văn chương thì không phải là sẵn, là nhiều. Nhà văn Hồng Nhu thuộc số ít nếu so sánh với thế hệ mình và đương nhiên là không cần so sánh với các thế hệ 7X, 8X. Chỉ cần cái tiếng cười cất lên trong bóng đêm của nhân vật nữ Thuỳ Dương, đã thấy Hồng Nhu biết nghe, biết nhìn và cảm đến chừng nào cuộc sống quanh mình: “Người đàn bà đến sát bên chúng tôi một cách tin cẩn, gật đầu chào tôi. Hơi thở của chị nọng hổi bên tai, cả mấy sợi tóc loà xoà cọ vào gáy bên trái tôi buồn buồn, mê mê. Chắc chắn không phải chị xức nước hoa, nhưng một làn hương khó tả phả ra từ dáng vẻ và giọng nói của chị (...). Chắc là trong đêm tối, một nụ cười tuyệt đẹp của chị đã nở. Không biết vì sao mà xưa nay tôi vẫn cho người phụ nữ đẹp nhất ở vào hai trường hợp: Lúc quài tay ra sau gáy trễ tràng búi tóc và lúc giễu cợt mỉm cười” (Thuyền đi trong mưa ngâu).

Truyện ngắn Hồng Nhu, tôi nghĩ khi đọc, cứ như làn gió mát dù thoảng qua nhưng mà mơn man, quấn quýt. Có một mạch truyện ngắn giàu chất thơ kiểu như Thuyền đi trong mưa ngâu trong tuyển tập này.
Dường như nhà văn Hồng Nhu rất thông thạo thung thổ miền sông nước cũng như thông thạo đo mưa đo gió (rất có thể đấy là vốn liếng nghề nghiệp mà ông đã sống đã làm những năm trong vai một cán bộ kĩ thuật thuỷ lợi ở Nghệ An). Một không gian- nghệ thuật đặc thù tái xuất trong nhiều truyện như :Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ, Vịt trời lông tía bay về, Những giọt mưa, Lễ hội ăn mày, Bến Bội Đình. Chỉ cần chấm phá, phác vẽ là nhà văn đã cho ta cảm nhận được rõ ràng cái cảnh vừa có gì lãng đãng lại vừa hiện hữu: “Sợi dây trong tay cô gái rút về đến đâu, những trúm tre nho nhỏ, xinh xinh buộc vào dây, khoảng cách đều nhau lần lượt nổi lên mặt nước thu về đến đấy. Tiếng tôm búng bong bóc nghe đã rõ. Còn tiếng rì rào của gió bắt đầu loang trên mặt hồ thì nghe xa lắm, xa vời...” (Gió thổi chéo mặt hồ).

Trong một bài viết cách đây chưa lâu: Truyện ngắn hiện đại - Các khuynh hướng phong cách (in trên tạp chí Nhà văn) tôi đã mạo muội xếp Hồng Nhu vào số các Nhà văn thuộc “khuynh hướng phong cách cổ điển” (cùng ngang hàng với Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Bản, Nguyễn Quang Thân.... nghĩa là những nhà văn đến nay thuộc hàng “xưa nay hiếm”). Tuy nhiên tuổi tác không hề ngăn cản bầu nhiệt huyết và cái nhìn trời xanh của họ đối với đời sống, nói như Nguyễn Khải “gừng càng già càng cay”. Nói “khuynh hướng phong cách cổ điển” là bởi nhà văn quan tâm đến các yếu tố ổn định và truyền thống của thể loại truyện ngắn (cốt truyện tiêu biểu, tính cách sắc nét, chi tiết điển hình...)

Hồng Nhu là nhà văn Kì Kha khi viết truyện ngắn. Tôi có cảm giác khi đọc ông, dường như là chậm rãi và nghiền ngẫm, dường như là ấp ủ ý tứ, thai nghén dự định, rồi làm cho nó lắng đọng kĩ càng sau đó mới chưng cất như một nghệ sĩ nấu rượu ngon để dâng tặng bạn bè (mà đến lúc nên coi rượu như một văn hoá, loại trừ những ai mượn nó để giải thoát một cách tiêu cực). Trên phụ san Văn nghệ quân đội số 40 năm 1999, tôi đọc thấy những bộc bạch của nhà văn Hồng Nhu trong bài: Tôi viết “Vịt trời lông tía bay về”. Không trình bày về kĩ thuật viết truyện ngắn, nhà văn Hồng Nhu chỉ muốn chia sẻ với văn giới những suy tư về nghề văn, hẳn là thế: “Tôi viết Vịt trời lông tía bay về trong sự nuối tiếc, bâng khuâng, khắc khoải... như vậy. Sự đậm đặc chất phôncơlo của cảnh và người trong truyện (như nhiều bạn đã nhìn nhận) sở dĩ có được là nhờ nó đã từng có. Nói về bếp núc “ kĩ thuật của nghề viết truyện ngắn thì nhiều chuyện, nhưng không có vốn sống, chất sống, cùng lòng yêu da diết mà người viết từng trải qua, thì không thể nào bày ra được văn chương cựa quậy, có hồn trên trang giấy. Như vậy là ôm ấp trong gần hai mươi năm, tôi mới viết thành công cái truyện ngắn Vịt trời lông tía... Nghĩ cái nghề viết của chúng ta thật đã ghê gớm”.

Đọc tuyển tập truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu tôi tâm đắc cái lối hành xử trong sáng tác của ông: “Viết năm, ba nên chọn lấy một”. Nhà văn đã tự chọn 33 truyện đưa vào tuyển tập này nhưng tôi lại muốn tự mình làm một tuyển chọn khác sau khi đọc kĩ, lật đi lật lại và nhất quyết cho rằng có 7 truyện hay nhất (mong được nhà văn và bạn đọc lượng thứ): Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ, Vịt trời lông tía bay về, Những giọt mưa, Lễ hội ăn mày, Trà thiếu phụ Bến Bội Đình.

Lối viết của nhà văn Hồng Nhu vừa là sự trầm tĩnh đến mức kiềm chế vừa là sự tung phá theo ngẫu hứng, vừa “ròng ròng sự sống” vừa như thoát tục, vừa tỉ mỉ chi tiết vừa chỉ là phác vẽ, khơi gợi. Tất cả đặc điểm trái ngược mà thống nhất này trong cách viết của nhà văn Hồng Nhu, bạn đọc dễ nhận ra, trong 7 truyện hay nhất theo cách bình chọn riêng của tôi như vừa viết ở trên.
Tôi cũng muốn đứng về phía nhà văn Hồng Nhu để “phản kích” lại cái quan niệm văn chương chỉ là “một trò chơi vô tăm tích”, viết chỉ để thoả mãn cái tôi như hũ nút của tác giả. Đọc truyện ngắn Hồng Nhu, tự nhiên tôi liên hệ tâm đắc  tới ý kiến của nhà văn Pháp J.P.Sartre: “Cho nên cần khuyên các tác giả đương đại hãy thoát ra khỏi các thông điệp đi, nghĩa là cố tình giới hạn tác phẩm của mình trong việc biểu hiện một cách không chủ ý tâm hồn mình (...). Nhưng hành động viết bao hàm hành động đọc như tương liên biện chứng của nó và hai hành vi có liên quan chặt chẽ với nhau đó cần có hai tác nhân khác nhau. Chính sự hợp lực của tác giả và độc giả sẽ làm nảy sinh ra vật cụ thể và tưởng tượng, là cái công trình trí tuệ. Chỉ có giới nghệ thuật cho người khác và bởi người khác”. (J.P. Sartre: Văn học là gì? Nxb Hội Nhà văn. H. 1999. Trang 41 và 58)
Đã từng muốn đi trong mưa ngâu cùng nhà văn Hồng Nhu, tôi và độc giả lại muốn được đi tiếp với những trang văn đẹp của ông trong tương lai.
Hà Nội, 10/2006
    B.V.T

(nguồn: TCSH số 217 - 03 - 2007)

 


---------
(*) Hồng Nhu: Tuyển tập truyện ngắn. Nxb Hội Nhà văn. H. 2006

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.