NGUYỄN VĂN SƯỚNG
Đi như là ở lại(*) là tập bút ký viết về những vùng đất Lê Vũ Trường Giang đã đi qua trong hành trình tuổi trẻ. Tác phẩm dày gần 300 trang, gồm 15 bút ký.
Một nửa tập sách viết về quê hương Thừa Thiên Huế của tác giả, là mảnh đất làng Thần Phù quê nội, phá Tam Giang, đèo Hải Vân, núi Bạch Mã, ký ức vạn đò, đầm Cầu Hai, núi Thúy Vân... Nửa còn lại là ruộng bậc thang Mù Cang Chải, hoa ban Điện Biên… Tác giả chia sẻ rằng: “Với bút ký văn học, tôi đã dấn bước “tiến vào những điều không thể”, nhận diện được giới hạn của mình trên hành trình đi và sự ở lại mang tính trói buộc của không gian. Đi bằng tư tưởng rạo rực khai phóng và thân xác thì ở lại bồi đắp, tu dưỡng, giữ gìn. Đi bằng phần thân nhưng phần tâm vẫn ở lại neo đậu quê hương”.
Đọc Đi như là ở lại, tôi như được đưa về thời thơ ấu cách đây mười mấy năm qua bút ký Mênh mông Trằm, về khoảng không-thời gian của những năm tháng ấu niên với cuộc sống nơi thôn quê với Trằm - hồ xanh giữa dải cát trắng vùng Hương Thủy, Thừa Thiên Huế. Tôi vốn người con đồng bằng sông Hồng, chưa từng sống ở miền Trung cát trắng, dĩ nhiên chẳng thể cảm nhận hết không gian sống của tác giả nhưng có điểm chung đó là cảm xúc về những trưa mùa hè của một thời ấu niên vô lo vô nghĩ theo đám bạn tắm sông, trèo cây hái quả để đến nỗi tóc khét mùi nắng. Tiếp đó, tác giả đưa tôi ra không gian rộng hơn, không còn là cái làng nhỏ bé nơi Trằm xưa nay đã biến đổi theo thời cuộc để đến những ngọn núi Bạch Mã từng đàn mây trắng ruổi nhau về miền “linh sơn” với những kỳ hoa dị thảo. Rồi ngược ra phá Tam Giang “căng gió” lộng buồm vượt “hải khẩu” với dải đầm Cầu Hai, cửa biển Tư Hiền “quẩy gánh tang bồng” rồi “vén mây” qua đệ nhất hùng quan Hải Vân ngắm từng đàn cò trắng “cánh phân vân”.
Chẳng những thế, Lê Vũ Trường Giang còn dẫn chúng ta về một cuộc du ký đi qua các di tầng văn hóa bằng một khảo cổ học văn hóa vùng đất Huế xưa với lăng tẩm vị vua khai lập triều đại nhà Nguyễn - vua Gia Long để nghe kể về tình người đằng sau những công nghiệp kinh bang, hơn thua của thế thái nhân tình. Hoặc giả là những ngôi làng với bề dày lịch sử hàng trăm năm từ khi con dân nước Việt mở cõi Nam tiến, như Điền Lộc vùng Ngũ Điền, hoặc làng Bích La được ghi lại trong Ô châu cận lục (Dương Văn An, 1553) với phiên chợ quê vào đêm mùng 2 rạng sáng mùng 3 tết để “lấy may, cầu tài, cầu lộc đầu năm, mong cho năm mới buôn thuận bán hòa”. Đặc biệt, khi tác giả đưa ta về lại với cuộc sống đương đại nóng hổi với văn phong đậm chất thời sự qua bài viết về sự cố ô nhiễm biển vào năm 2016 khiến cả dải biển miền Trung thành “biển chết”, để “nguyện cầu cho đại dương” tha thứ cho những lỗi lầm sai quấy bởi lòng tham con người gây ra cho biển. Hoặc về vạn đò trên Hương giang với “nỗi niềm” về những thân phận người rày đây mai đó để mong về một “Ngày mai gió mới ngàn phương”. Vượt về phương Nam nghe tiếng nói người miền Tây thân thương mang hoa trái từ miệt vườn ra chợ. Hay trở ngược ra miền Tây Bắc lang thang trên những nẻo đường, đặt chân lên “những ruộng bậc thang lên đến tầng trời”.
Cái hay của Lê Vũ Trường Giang là cách xử lý cân bằng giữa khảo cứu khoa học, với các con số số liệu khô khan vô hồn, và khảo cứu tinh thần với ngòi bút miêu tả tinh tế các sắc thái của văn hóa của con người, vùng đất nơi tác giả đi qua từ đó dựng lại được không-thời gian sống của hồi ức kỷ niệm dù không tránh khỏi những hạn chế của ký ức vốn rơi rụng qua thời gian và trám vào đó bằng những ảo ảnh do tự mình xây lên. Tôi rất thích những câu chữ tự nhiên tuôn chảy như vật tự nói ra qua ngòi bút nhà văn, để con sông kể câu chuyện của con sông qua bao thác bao gềnh, để biển cả nói tiếng nói của đại dương sâu thẳm, ngọn núi cất tiếng nói của ức triệu hạt cát lớn lên qua thời gian..., mà có khi tác giả đã gần như đạt đến.
Ký là gì nếu không phải là đưa ra các con số dữ liệu chính xác cho độc giả biết về vùng đất nào đó. Nhưng ngoài sự khô khan của con số, ký chính là những nghiệm trải cá nhân của cá nhân nhà văn. Chính nhà văn mới có khả năng dựng lên bằng cảm nghiệm của riêng mình một thế giới của con người - vùng đất, sự tương thuộc giữa vùng đất quy định lên tồn tại người và dấu ấn của vùng đất trong tâm thức người vùng đất đó. Để làm được điều đó nhà văn cần có sự sống thực dấn mình vào thế giới người đang sống trong vùng đất đó, tự mình biến mình thành con người sống-thực-nhìn-dử- ng-dưng: sống thực để hiểu tâm thức của con người vùng đó nhưng có cái “dửng dưng” để không quá chìm đắm vào nó, hầu mong có được cái nhìn “khách quan” qua những số liệu, hoặc tìm ra những cạnh khía mà chính người trong cuộc không nhận ra. Ký là sự cân bằng mong manh giữa thể loại báo chí, khảo cứu khoa học và văn chương, và nhà văn bằng sự tinh tế của mình tạo ra sự cân bằng mong manh đó, nếu quá lệch về con số khoa học sẽ tạo thành báo chí nhưng lệch qua sáng tác phóng túng đó sẽ là tạo ra một vùng đất ảo tưởng của văn chương.
Lê Vũ Trường Giang đã đi giữa sự cân bằng mong manh giữa thực và mộng, giữa quá vãng và hiện tại, qua ngòi bút của mình. Và là một tác giả chịu khó đi và lăn lộn với thực tế nhằm nắm bắt được nhiều chất liệu của đời sống thực tại, tôi nghĩ tác giả sẽ còn tiến xa trên con đường văn chương.
N.V.S
(TCSH351/05-2018)
............................................
(*)Đi như là ở lại (bút ký), Lê Vũ Trường Giang, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2017.
TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.
ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!
ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)
MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.
NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.
VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.
Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.
CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.
ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.
HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.
FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.
Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.
ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.
PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.
NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.
TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.
Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.