LÊ HUY MẬU
Anh Điềm, bấy giờ còn là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa TW, nhưng đã sắp nghỉ. Anh ra thăm Côn Đảo. Trong đoàn tháp tùng anh ra Côn Đảo của Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu có tôi.
Xe đưa đoàn ra tận máy bay. Không qua cửa hàng không như những khách bình thường. Tôi mang tiếng là đã ở Vũng Tàu lâu nhưng chưa được ra Côn Đảo, Trưởng ban Tuyên Giáo, nhân chuyến tháp tùng anh Điềm, cho tôi đi theo.
Nhớ lại, thời còn Đặc khu, có lần, tôi được Ban Tuyên giáo cử lên Sài Gòn mời nhà thơ Chế Lan Viên về Vũng Tàu nói chuyện. Trong rất nhiều việc ở Ban Tuyên giáo, thỉnh thoảng có những việc khiến tôi thích thú vì có cơ hội được gặp nhiều người tên tuổi đến tỉnh. Ví như, việc được chăm nuôi tướng Trần Độ chẳng hạn. Ví như được gần gũi giáo sư Trần Văn Giàu, nhà thơ Tố Hữu và nhiều người nổi tiếng khác… Ban Tuyên giáo cử tôi đi cùng Bí thư đưa nhà thơ Chế Lan Viên ra thăm Côn Đảo. Mừng ơi là mừng! Mừng vì được lần đầu ra Côn Đảo. Nhưng mừng hơn là được đi cùng nhà thơ Chế Lan Viên. Nhưng lần ấy, trước giờ bay, tôi được thông báo là “không phải” đi nữa.
Anh Điềm bảo, anh chỉ ra thăm Côn Đảo chứ không làm việc gì. Trước lúc về, anh sẽ gặp gỡ lãnh đạo huyện một chút, thế thôi! Tôi sẽ không có lúc nào để gặp riêng anh, nếu như anh cứ ngủ trong biệt thự riêng phía trước. Nhưng, ngay buổi tối đêm đầu tiên, anh đã xuống phòng của tiến sĩ Thức, thư ký riêng của anh, và tôi. Anh bảo, mình ngủ dưới này với các cậu nói chuyện cho vui!
Trông anh Điềm thật hiền. Gương mặt thật phúc hậu. Giọng Huế thật nhẹ nhàng và ấm áp. Sự cởi mở, thân tình của anh, tôi thấy nó chân thành, nó tự nhiên lắm. Chẳng thấy có vẻ gì là anh đang làm “dân vận”. Tuy nhiên, do bản tính tự ti thường trực, núp dưới vỏ bọc là lòng tự trọng của mình, nên tôi luôn giữ khoảng cách trước anh.
Còn nhớ, năm 1985, khi lần đầu ngấp nghé trước cửa Hội Nhà Văn, tôi thấy, tất cả những người ra vào cổng trụ sở ấy, chẳng biết họ là ai, họ có phải là nhà văn hay không, nhưng trông họ mới vinh dự làm sao! Trong mắt tôi khi ấy, tôi toàn thấy những gương mặt lạnh lùng xa lạ. Chỉ anh Điềm, khi gặp gỡ với mấy người viết trẻ trong trụ sở Hội hôm đó, thật ân cần, gần gũi. Giọng anh nhỏ nhẹ. Anh tiếp xúc những người viết trẻ với ánh mắt trìu mến biết bao. Anh xưng hô với những người viết trẻ là “các anh chị”. Bấy giờ, anh Điềm đã quá nổi tiếng với trường ca Mặt đường khát vọng. Trông anh thật nho nhã và khiêm tốn. Tôi mang theo ấn tượng tốt đẹp ban đầu ấy, về anh, mãi cho tới khi gặp lại anh.
Hôm huyện ủy Côn Đảo tổ chức chiêu đãi, tôi ngồi cùng bàn với Thức và các cán bộ của huyện. Anh Điềm đề nghị tôi sang ngồi với anh, ngồi cạnh anh để nói chuyện. Sau này, Bí thư Tỉnh ủy nhắc mãi. Rằng, tôi chuyện trò với Ủy viên Bộ Chính trị như chuyện trò với bạn bè. Quả thật, khi ấy, tôi có cảm giác như anh Điềm có vẻ chán với những câu chuyện tầm phào trong bữa tiệc. Thỉnh thoảng, anh quay sang nói chuyện riêng với tôi, hỏi han tôi chuyện gì đó. Những chi tiết này, vô hình trung, khiến tôi “có giá hơn” trong mắt những vị lãnh đạo tỉnh của mình!
Việc đi câu cá ở Côn Đảo là do anh Điềm đề xuất. Hùng, bấy giờ là Phó Giám đốc cảng Bến Đầm, được giao chuẩn bị cho buổi đi câu. Không phải câu trên bờ mà câu trên thuyền, ngoài biển. Con tàu chở đoàn cán bộ đi câu hôm đó chẳng có tàu nào hộ tống. Ông Ủy viên Bộ Chính trị đi câu cũng chẳng sang trọng hơn những người đi câu khác điều gì. Cũng quần soọc, áo thun. Cũng cần câu, cũng mồi câu như mọi người. Hôm ấy biển êm. Sóng chỉ lắc lư con thuyền. Và nó cũng chỉ biểu hiện được là nó khi làm lắc lư con thuyền. Còn khi nhìn ra biển thì không thấy được nó đâu.
Bây giờ, nhớ lại, thấy tiếc, hình như hồi ấy chưa có di động chụp hình. Tiếc chẳng thấy ai chụp hình về buổi đi câu đó. Giá có tấm hình anh Điềm đi câu cá ở Côn Đảo minh họa cho bài viết thì hay!
Hôm ấy là ngày không may mắn đối với người đi câu. Cả 5, 7 cần câu, câu cả ngày mà chỉ được có mươi con cá. Con lớn nhất chỉ bằng ba ngón tay ghép lại. Anh Điềm câu được một hay hai con gì đó. Con cá đầu tiên cắn câu, anh Điềm giật được là con cá làm vệ sinh. Nó chỉ lớn bằng ngón chân cái là cùng. Loài cá này không ai ăn. Bắt được là ném xuống biển. Còn con sau, tôi không nhớ. Nếu có, thì đấy cũng là một con cá nhỏ.
Cá không cắn câu không phải lỗi của người dẫn đi câu. Nhưng Hùng cứ băn khoăn. Hùng cho tàu đổi vị trí câu mấy lần, nhưng kết quả không khá hơn. Thật ra thì kết quả buổi đi câu không quan trọng. Quan trọng là anh Điềm muốn thư giãn. Muốn được là ngư ông, muốn được lênh đênh trên biển, ngắm trời ngắm biển sau những tháng năm cầm nắm đấm micro mệt mỏi.
Tôi cũng chỉ mới thấy anh Điềm trước micro có một, hai lần gì thôi. Một lần là khi, anh mới lên làm Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin. Một lần, có lẽ là trên truyền hình. Anh Điềm giọng không vang. Nhưng thông tin của anh thường có độ sâu. Phải chú ý lắm thì mới thấm, mới hiểu hết ý anh. Sau này, đọc thơ anh Điềm khi đã buông hết mọi chức vụ, tôi liên hệ thấy, nhận xét của mình về anh có phần đúng. Thơ anh đầy nỗi niềm. Nhưng lắng sâu. Và hình như chưa bao giờ anh nói hết những điều anh muốn nói. Anh chỉ gợi nhiều hơn là bộc bạch nỗi niềm.
Có một ý, anh Điềm nói lâu rồi, trong hội nghị của ngành Văn hóa, khi anh còn làm Bộ trưởng, tôi còn nhớ. Anh nói về sự bất cập của các giám đốc Sở Văn hóa trong toàn quốc. Lúc bấy giờ, tôi thấy anh Điềm bắt mạch trúng. Thực trạng bất cập phổ biến không chỉ trong ngành Văn hóa. Nhưng Văn hóa, càng về sau này càng tỏ ra bất cập nhiều hơn. Ở nhiều nơi, Văn hóa vẫn được coi như là bộ phận cờ, đèn, kèn, trống trong xã hội. Chưa anh nào, dù ở trình độ nào, giao làm Giám đốc Văn hóa lại ngán ngại. Có lần, trong hội nghị của Bộ Văn hóa, tôi có dự, một vị đại biểu, phát biểu, rằng trong ban giám đốc của mình, không ai có nghiệp vụ chuyên môn về ngành Văn hóa. Có lẽ anh Điềm hiểu mọi chuyện, nhưng công bằng mà nói, anh không thể thay đổi được thực trạng tình hình đó.
Khi anh Điềm ngồi câu cá trên thuyền ở Côn Đảo, anh không hề biết rằng, có người đang lặng lẽ quan sát anh. Khi anh ngồi câu cá, tôi thấy, anh thi sĩ biết bao. Lão thực biết bao. Tôi thầm đọc mấy câu thơ mà tôi thích trong trường ca Mặt đường khát vọng của anh:
“Ơi cánh cò tị nạn khô gầy
Đêm đêm về những hàng cây thành phố
Lao xao tìm chốn ngủ…”
…
Bấy giờ chiến tranh, rừng núi, nông thôn đều bom đạn, chim bỏ rừng, bỏ làng mạc về thành phố tìm chỗ ngủ. Có mấy câu đơn giản vậy thôi cũng đủ nói lên sự khốc liệt của chiến tranh, nó làm đảo lộn cả quy luật của tự nhiên, và v.v… Tôi đã yêu thơ anh Điềm biết bao, vậy mà khi gặp anh gần như tôi chẳng biết nói gì, cứ lẳng lặng ngồi câu cạnh anh, và nghĩ ngợi vơ vẩn một mình.
Không biết tôi có lầm không? Hình như, tôi đọc đâu đó, nói rằng, anh được sinh ra, hoặc đã có tuổi thơ của mình trên quê hương tôi, ở Thanh Chương Nghệ An. Tiếc là tôi quên không hỏi anh là còn lưu giữ được kỷ niệm, hay ký ức gì về quê hương Thanh Chương của tôi không?
Ngồi trên con tàu nhỏ, bập bềnh ngoài khơi đảo Côn Sơn, tôi nghĩ, như không phải là tôi đang ngồi bên cạnh một ông Ủy viên Bộ Chính trị, tôi đang đi câu cùng nhà thơ tài năng Nguyễn Khoa Điềm, tác giả của trường ca Mặt đường khát vọng nổi tiếng và là tác giả của bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ mà tôi rất ngưỡng mộ.
Thơ anh Điềm trong chống Mỹ đã có giọng điệu khác nhiều so với những nhà thơ cùng thời với anh. Mặt đường khát vọng là trường ca, đặt anh vào vị trí nhà thơ cách mạng không thể không nhắc tới trong bất cứ bộ tuyển nào. Nó quan trọng không chỉ ở tính chất, nội dung, thời điểm ra đời, mà trong nó, có cả sức vóc văn hóa của nó. Chỉ nói riêng về chương Đất nước thôi, đã đặt anh ngang với những Nguyễn Đình Thi, những Đỗ Nhuận, Văn Cao trước đó rồi!
Thơ anh Điềm có sự lắng sâu của cảm xúc. Có sự minh triết. Nhưng sau hết cả, ở anh, là giọng điệu thơ rất riêng. Thơ anh có nội lực logic nội tại, một thứ triết lý bằng ngôn ngữ hình tượng mới, lý trí mà vẫn hấp dẫn, cuốn hút.
Tôi trở lại Côn Đảo vào dịp Hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức lễ cầu siêu cho các vong hồn tử nạn ở Côn Đảo. Tôi có ra chỗ mà anh Điềm trồng cây lưu niệm ở Hàng Dương. Bên cạnh những gốc cây có biển ghi tên những vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, có gốc cây có biển đề tên anh Điềm với đầy đủ chức danh ở thời điểm đó.
Bỗng dưng, tôi nhớ tới anh, nhớ tới buổi đi câu cá cùng anh ở Côn Đảo đã lâu rồi!
Vũng Tàu 28/3/2015
L.H.M
(SHSDB20/04-2016)
Kỷ niệm 100 năm Trường Đồng Khánh
BÙI KIM CHI
50 năm ngày mất Giáo sư Đặng Văn Ngữ
ĐẶNG NHẬT MINH
Nhân 110 năm ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC (1907 - 2017)
TRẦN VIẾT NGẠC
NGUYỄN HOÀNG THẢO
Trước khi có chợ, bên ngoài cửa Ðông Ba (cửa Chánh Đông) dưới thời vua Gia Long có một cái chợ lớn mang tên “Qui Giả thị” - chợ của những người trở về.
NGUYỄN KỲ
Cuộc vận động tranh cử và “đấu tranh nghị trường” trong thời kỳ 1936 - 1939 do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo là một bộ phận đặc biệt trong cuộc đấu tranh vì quyền dân sinh dân chủ ở Việt Nam.
DÃ LAN NGUYỄN ĐỨC DỤ
Thú thật với độc giả, một trong những điều vui thú nhất của tôi - cho tới nay tôi vẫn say mê - là sưu tầm khảo cứu về Phổ trạng (tức là lai lịch, nguồn gốc...) của các nhân vật lịch sử như Ngô Quyền, Nguyễn Xý, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Phạm Ngũ Lão, Phạm Sư Mạnh...
LÂM QUANG MINH
Tôi không có vinh dự như nhiều anh chị em cán bộ, dũng sĩ từ miền Nam ra Bắc công tác, học tập hay chữa bệnh, được trực tiếp gặp Bác Hồ, được Bác ân cần động viên dạy bảo, được cùng ngồi ăn cơm với Bác, được Bác chia bánh chia kẹo... như người cha, người ông đối với các con cháu đi xa về.
THANH HẢI
Hồi ký
Tháng 10 năm 1962, tôi được vinh dự đi trong đoàn đại biểu mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc. Lần đó một vinh dự lớn nhất của chúng tôi là được gặp Hồ Chủ Tịch.
Giáo sư Bửu Ý, tên đầy đủ là Nguyễn Phước Bửu Ý, sinh năm 1937 tại Huế. Ông vừa là nhà giáo, nhà văn, vừa là dịch giả của các tiểu thuyết nổi tiếng như Nhật kí của Anna Frank, Đứa con đi hoang trở về, Bọn làm bạc giả của André Gide, Con lừa và tôi của Juan Ramón Jiménez; Thư gửi con tin của Antoine de Saint-Exupéry… đăng trên các tạp chí Mai, Văn, Diễn đàn, Phố Văn (trước 1975).
I. Nhớ hơn bốn mươi năm về trước, vào khoảng đầu mùa đông năm 1974 - mùa dỡ củ dong riềng - tôi đi chợ Chũ (Lục Ngạn), mua được tập truyện Khúc sông. Trên lối mòn đường rừng, bước thấp bước cao, tôi vừa đi vừa tranh thủ đọc. Ngày ấy, tôi chỉ biết tên tác giả là Nguyễn Thiều Nam, nào có biết đẳng cấp của ông trong làng văn ra sao!
Sinh thời, cha tôi – họa sỹ Trịnh Hữu Ngọc, hầu như không bao giờ nhắc đến những năm học vẽ ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (MTĐD).
HỒ QUỐC HÙNG
(Thân mến tặng các bạn lớp Văn K9 - Đại học Tổng hợp Huế)
Ai cũng có kho ký ức riêng cho chính mình như một thứ tài sản vô hình. Ký ức lại có những vùng tối, vùng sáng và lúc nào đó bất chợt hiện lên, kết nối quá khứ với hiện tại, làm cho cuộc sống thêm ý vị.
TRẦN VĂN KHÊ
Hồi ký
Có những bài thơ không bao giờ được in ra thành tập.
Có những bài thơ chỉ còn ghi lại trong trí nhớ của tác giả và của đôi người may mắn đã được đọc qua một đôi lần.
Ngắm nhìn vẻ đẹp tinh khiết của cô nữ sinh Đồng Khánh dưới vành nón Huế, trong chiếc áo dài trắng tinh khôi, không ai nghĩ chỉ ít năm sau ngày chụp bức ảnh chân dung ấy, chị chính là nạn nhân của một chế độ lao tù tàn bạo và nghiệt ngã.
Trong quy hoạch một đô thị văn minh, vỉa hè là khoảng công cộng dành cho người đi bộ. Còn theo kiến trúc, vỉa hè là đường diềm, trang trí cho phố phường tạo ra sự hài hòa giữa đường và nhà mặt phố. Người Pháp đã làm những điều đó ở Hà Nội từ cuối thế kỷ 19.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Hồi những năm 1950, làng Trúc Lâm quê tôi thuộc vùng du kích ven thành phố Huế.
QUẾ HƯƠNG
Ngày 15/7/2017 tới đây, ngôi trường hồng diễm lệ nằm cạnh trường Quốc Học, từng mang tên vị vua yểu mệnh Đồng Khánh chạm ngưỡng trăm năm.
THÁI KIM LAN
Trong những hình ảnh về ngày Tết mà tôi còn giữ được thời thơ ấu, thì Tết đối với tôi là Tết Bà, mà tôi gọi là Tết Mệ Nội chứ không phải Tết Mạ. Bởi vì mỗi khi Tết đến, cả đại gia đình chúng tôi đều kéo nhau lên nhà Từ đường “ăn Tết", có nghĩa quây quần chung quanh vị phu nhân trưởng tộc của dòng họ là bà nội tôi.
TRẦN VIẾT NGẠC
Báo Xuân xưa nay luôn là số báo đẹp nhất, phong phú nhất trong một năm. Bài vở số Xuân được tòa soạn đặt bài trước cho các cây bút thân quen, nổi tiếng từ mấy tháng trước.
NGUYÊN HƯƠNG
Trong đời, người ta ai cũng nên phải lòng một vùng đất. Cảm giác đó thật đặc biệt, giống như khi ta một mình đi đêm về sáng, bỗng gặp đóa hoa cô đơn thức sớm nở ngoài thềm, thấy thương.