THÁI KIM LAN
(Đôi điều về Con Đường Mẹ Đi)
Trước tiên, khi thử nhìn lại con đường của Mẹ - Đạo Mẫu, tôi lại muốn đánh dấu chéo gạch bỏ những khái niệm “Đạo Mẫu”, Tiên Thánh Liễu Hạnh, Thánh Cô và một loạt những nhân vật được tôn sùng cho sức mạnh, thế lực hàng đầu của nữ giới Việt, thường được hóa thánh, sùng thượng một thời.
Tranh: Lê Minh Phong
Làm chuyện này tôi nghĩ mình không phạm thượng, và tin chắc người mỉm cười đầu tiên với tôi là bà chúa Liễu. Bởi vì bà là vị nữ nhân đã thấu hiểu hơn ai thể chất đích thực của “đàn bà” nói chung và phụ nữ Việt nói riêng: không thần tiên, không đúc tượng mà sống chân thực ở đời bằng khúc dạ của mình. Câu chuyện tiên hạ giới vào gia đình thường dân, làm con đôi vợ chồng phúc đức, lớn lên, lấy chồng sinh con rồi… chết, rồi ước nguyện tái sinh, chỉ để… lấy chồng, sinh con, làm trọn chức năng đàn bà, rồi lại… chết nhưng… trở thành bất tử. Ba lần trở về hạ giới cũng chỉ vì một chữ “tình”, tình yêu đất, tình yêu người, - vị được phong “Mẹ của muôn dân”-, “Thánh mẫu” ấy trở nên bất tử, bất tử trong nghĩa hầu như vẫn còn hiển hiện đâu đây nơi những hình hài nữ nhi, chưa một lần hiển thánh vĩnh viễn, còn mãi trong kiếp “đàn bà”. Liễu Hạnh đã biểu hiện giới tính Việt nữ không ở đâu khác hơn là chính ở trong bản chất “Hoá Thân”. Khác hẳn với nam giới hầu như đồng dạng, và đồng điệu (monotonne), người nữ có thể hiện thân muôn vẻ, như những cánh bướm muôn màu, như những…nàng tiên hạ giới. Tiên phải chăng là hình hài của bướm, của hoa hoá thân, hoá kiếp và đã là tiên ắt phải đẹp?
Câu chuyện mẫu hệ Việt Nam có thật trong lịch sử từ khi mảnh đất chữ S có lá sen, lá chuối, chiếc nón đi về, trong khi huyền thoại tiên bướm là khởi đầu cuộc hoá thân sáng tạo của Mẹ muôn loài. Hóa thân không ngừng trong giòng đời, trong muôn nghìn ức vạn thế hệ, để sinh và dưỡng muôn người. Sinh thành, nuôi dưỡng, giữ gìn, hình hài người phụ nữ Việt in bóng trên dải đất chữ S đã uyển chuyển đi những đường nét đậm tình nhân ái, sáng tạo, chân tình và bi ai. Đi, biến đổi, trở thành, người phụ nữ Việt linh động ảo hóa, dù gian nan đọa đày, ma chiết trắc trở. Từ Bà Trưng, Bà Triệu, Thuận Thiên, Ỷ Lan, Từ Dũ Thái hậu, hay Huyền Trân, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, cho đến Nhà mẹ Lê, Mẹ Hồ Dzếnh, chị Dậu, ngay cả Thị Nở như những số phận hẩm hiu, nàng Kiều, Chinh phụ, bà mẹ Cúc Hoa… để nêu ra một vài tiêu biểu những con người với thiên chức đàn bà, người phụ nữ không ngừng tảo tần, không ngừng hoá kiếp với bầu sữa ngọt, với cảm hứng sáng tạo từ trái tim và đôi bàn tay sẵn sàng biến cải, đổi khác, nhào nặn từng hình hài, tạo dựng cuộc sống, gầy dựng mô hình xã hội yêu thương bằng cấu trúc gia đình.
Không ngạc nhiên chút nào khi “Gia huấn ca” của Nguyễn Trãi, tác phẩm thành văn về giáo dục con người Việt thực hiện đạo làm người, ở thế kỷ 14 đã dành 15 trong toàn thể 16 chương của tác phẩm, về việc giáo dục người phụ nữ trong gia đình, bởi vì gia đạo nằm chính trong sự cầm cương nẩy mực của người phụ nữ: làm con, làm em, làm chị, làm mẹ, làm dâu, làm bà, đối với bà con, vợ lẽ, bạn bè của chồng, đối với người ngoài trong xã hội, đối với người cơ hàn thấp kém, đối với gia đình, thờ cúng tổ tiên… đến điều chi li với mọi chi tiết cách ăn ở đứng ngồi, công dung ngôn hạnh, bởi vì mọi phẩm chất đời sống của mỗi một con người được sinh ra và lớn lên đều bắt nguồn từ cái kén đức hạnh của người đàn bà. Con tằm nhả tơ cuộc sống, như lời hát ru “cocon de soie, source de vie”, con tằm biết sống theo đạo tằm nhả tơ, đức hạnh nằm trong nhả tơ, không phải trong thần tượng.
Điều kiện sống và hành vi sống của người đàn bà là nguồn gốc của con người, của xã hội, đến nỗi, không lạ, một thời xa xưa, mẫu hệ là hình thức tổ chức xã hội đi trước phụ quyền và cũng không lạ khi J.J. Bachofen với tác phẩm “Das Mutterrecht” (“Mẫu quyền”) 1861 đã làm xôn xao giới nghiên cứu trí thức của thế kỷ 19, trong đó lời trao tặng cao quý nhất dành cho Mẹ “Bao lâu còn sống trên đời con sẽ không ngừng nói về phẩm hạnh tốt và lòng tin yêu của Mẹ” (“Solange ich lebe, werde ich nie aufhören, von Deiner Güte und Deinem Vertrauen zu sprechen”), với niềm đam mê chứng minh “mẫu quyền là nguồn gốc của xã hội”, đã đánh đổi mọi tham vọng thế lực khoa học mang tính hàn lâm trí thức của thời ông.
“Mẹ” đi trước muôn loài. Mẹ là cốt tủy của tâm tình nước non từ khi sóng vỗ bên bờ Kreta (Hy Lạp)1, Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Trung Hải, Biển Đông. Mẹ Kreta cầm rìu hai lưỡi, mẹ Liễu Hạnh tiên hoá bướm, đều là những khởi đầu của khởi sự “con người”.
Có thể nói trước mọi quyển huấn ca, mỗi người con đã đọc Mẹ từ khi còn nằm trong bụng Mẹ. Quyển sách đời nằm trong những nét Mẹ viết CON, vẽ CON, bừng sáng trên từng khoảnh khắc, không phải chỉ trong hạnh phúc mà ngay trong gian khổ bi ai. Con đường mẹ đi, mẹ dẫn con đi, đi theo cách nào đi nữa, gian nan, khổ ải, đắng cay, ngọt bùi nhung lụa, vẫn là con đường “gia đạo”, con đường đi và quay về tổ ấm, hợp quần nhân loại, con đường nâng bước chân người đến gần với nhau vì thương nhau, như mẹ thương con. Trên con đường ấy, sáng tạo hiện sinh mang ý nghĩa nhân quần, nhân tính của mái nhà yêu thương, của tụ hợp, quây quần bên nhau, từ đó con người trở thành người, không còn là những thú dữ gầm thét, cấu xé nhau. Hằng mấy mươi thế kỷ bể dâu, thương hải tang điền, mẫu gia đình biến đổi theo cấu trúc xã hội, mẫu quyền rồi phụ quyền, nhưng gia đạo thì chỉ có một, một con đường đi do người phụ nữ khai phá và đảm trách, bền bỉ, hiện diện nơi từng nhịp thở của con, trên đó người đàn ông khó có thể thay thế để gầy dựng nên.
Mẹ có thể dịu dàng như cánh bướm mà cũng có thể sắc bén như cây rìu hai lưỡi. Là rìu để bảo vệ con người, là bướm để làm đẹp nhân tính. Cả hai đều là biểu tượng nữ phái và sự quân bằng nằm ở trái tim nhân ái, rộng lòng biết thương “lòng ái từ như bể như non”. Gia đạo của người phụ nữ nằm trong hành trình mang nhiều chữ “thương”, thương chồng, con, cháu, nuôi lớn khôn, tạo bền vững, vun trồng hợp nhất. Gia đạo dù gian nan, Mẹ vẫn sắt son nhẫn nại tô bồi “Vườn xuân một cửa để bia muôn đời”. Nỗi mong ước hoá thân của Liễu Hạnh, người mẹ của muôn dân mang ý nghĩa chuyển hoá trên “đường đi”, làm cho “con” trở nên người trưởng thành và đứng vững trong xã hội. “Con” trở nên “Người”, từ dã tính trở nên nhân tính, mỗi lúc một được cải thiện đạo đức hơn và trở nên con người của hoàn vũ, của nhân loài. Đức hạnh của Mẹ nằm trong sự chuyển hoá, chuyển hoá bằng hơi ấm và trái tim sẵn sàng hi sinh.
Khác với chế độ phụ quyền nổi trên bề mặt ở các nước Âu cũng như Á, và cũng khác với cấu trúc mẫu quyền chuyên chế của thời xa xưa, trong đó người phụ nữ hoặc bị khinh rẻ như nô lệ, hay độc đoán bạo động như nam giới, phụ nữ Việt đã có một vị trí cao trong gia đình và được mọi người trong gia đình tôn trọng như là bà tổ của gia tộc: người phụ nữ là “nội tướng”, là phên dậu của cái nhà, và người đàn ông trong gia đình vẫn chỉ là “đứa con” lớn nhất, dù là con trời, trong tổ chức do người phụ nữ xếp đặt nên. Gia đạo bền vững nơi nhịp đong đưa giữa êm ái và sắt gan của người phụ nữ “Liễu Hạnh”, ở đạo hạnh nữ phái mềm mỏng mà trung kiên. Gương bền bỉ, can trường, sẵn sàng chịu đựng của người phụ nữ Việt Nam trong việc giữ gìn gia đạo của thế hệ trước vẫn còn ấm trong văn chương và ấm trái tim của những người con nay đã trở nên già. Làm sao quên được hình ảnh của Bà, của Mẹ, đầy thương yêu mà cũng đầy sức mạnh chống đỡ, lèo lái gia đình trong những lúc hoạn nạn, khi mất chồng, khi mất con, khi chiến tranh, khi đói khát lao khổ? Làm sao quên được bà Tú Xương2 vẫn tươi cười nuôi con khi chồng “dài lưng tốn vải”? Làm sao quên được cảnh Bà nội tôi vẫn ngâm thơ và ru con trong lúc gạo châu củi quế, phải nhịn bụng dành tiền cho con trai đi học, như mẹ Hồ Dzếnh một thời? Cũng không thể quên được cảnh Bà ngoại tôi ôm con của vợ lẻ vào lòng, nuôi nấng và che chở khỏi những cơn giận dữ của Ôn tôi, công dung ngôn hạnh hơn cả tứ đức tam tòng vì tất cả đến từ trái tim đơn giản.
Đối với mẹ của mẹ của mẹ của mẹ của mẹ của mẹ của… mẹ của con thì hoá bao nhiêu kiếp cũng sẵn lòng, độ lượng mười phương tám hướng, vẫn lồng lộng đi về bên con như Cúc Hoa hiển hiện, nâng con thành người của người. Cánh bướm của Liễu Hạnh vẫn còn đập mềm mại như cơn mộng ru con, dệt tơ nhân ái, và đôi tay vẫn chuyên cần thoăn thoắt như hai cánh dũa sắt của chiếc rìu3 sẵn sàng bảo vệ mọi đe doạ hiểm nguy xâm hại phẩm chất con người, dành tin yêu cho đàn con mai sau. Cầm rìu cũng như cầm kim thêu hay cầm bút viết, người phụ nữ Việt có thừa năng lực và trí tuệ để chuyển hoá chính mình và người trong cuộc hành trình nhân thế - cuộc giải phóng khỏi áp lực định kiến xã hội bên ngoài vẫn còn đằng đẳng, cho nên đức hạnh người phụ nữ nằm chính trong năng lực sáng tạo hoá thân mộng đời thành hiện thực bằng chân tình Mẹ Con, luôn chảy không ngừng, không dừng một giây để đừng hoá đá, dù là hoá đá chờ người thương…
T.K.L
(SDB8/3-13)
..............................................
1. Rìu hai lưỡi là biểu hiệu nữ giới được tìm thấy tại đảo Kreta (Hy Lạp).
2. Thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương.
3. Bươm bướm và rìu hai lưỡi là biểu tượng nữ giới Trong bài viết hai dấu hiệu này được sử dụng như một lối chơi chữ, lấy cảm hứng từ Tác phẩm của Gíela Ble- ibtreu - Ehrenberg có tựa đề:
Vom Schmetterling zur Doppelaxt - Die Umwertung von Weiblichkeit in unserer Kultur
“Từ bươm bướm đến chiếc rìu hai lưỡi- Sự đảo ngược giá trị nữ giới tính trong văn hóa của chúng ta”.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Thật vui mừng và ngạc nhiên, khi vừa chưa tròn năm trước, đọc tập thơ đầu tay của Trần Lê Khánh Lục bát múa (Nxb. Hội Nhà văn 2016), nay lại được cầm trên tay tập thứ hai Dòng sông không vội (Nxb. Hội Nhà văn, quý III, 2017).
KHẾ IÊM
(Kỳ cuối)
VIII. Nhà thơ William Carlos Williams
Phản ứng với Ezra Pound và T. S. Eliot, nhà thơ William Carlos Williams ngược lại, sáng tác loại thơ, ai cũng có thể hiểu được.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Thân phận con người có được “hiểu thêm” qua lăng kính lịch sử, được hướng dẫn tư duy phán đoán để ứng phó với cuộc sống thường nhật hay những biến thiên của thời đại?
Kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7/11/1917 - 7/11/2017)
HÀ VĂN LƯỠNG
LÊ XUÂN MINH THAO
Sông Bạch Đằng, một nhánh sông Kinh Thầy đổ ra biển nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng - nơi từng diễn ra những trận đánh quân xâm lược bằng đường thủy vang dội, quyết liệt; nơi hội tụ sức mạnh và chiến công dân tộc, chảy nối các thế hệ, thời đại, trở thành biểu tượng tinh túy của non sông: “Trăm con sông đều muốn hóa Bạch Đằng” (Chế Lan Viên).
NGUYỄN HỮU TẤN
1. Thi ca là tiếng nói chân thật nhất của tâm hồn con người. Tập lục bát Đầu non cuối bãi của Nguyễn Lãm Thắng (Nxb. Đại học Huế, 2014), nói theo kiểu “anh về trích cú tầm chương” của nhà thơ, đã thể hiện rất chân thực một bản ngã, một nhân vị hết sức chân thực và sinh động.
ĐÀM NGHĨA HIẾU
Nghiên cứu về căn tính tộc người có nhiều lối vào khác nhau: các thói quen của cuộc sống thường ngày, sinh hoạt tín ngưỡng và lễ hội, các truyện kể dân gian, v.v. trong đó, những dấu chỉ từ truyện cổ, từ thế giới biểu tượng luôn luôn có tiếng nói quan trọng.
LÊ QUANG THÁI
Sáng tác Văn tế cô hồn hay Văn tế thập loại chúng sinh thể hiện lòng hiếu nghĩa đối với tiên nhân, người thân và kể cả đồng bào, nó dựa vào nguồn cội tri ân sâu thẳm.
LÊ VĂN TRUNG
Trong dòng chảy của văn học Việt Nam đương đại, Nhật Chiêu là một trong những cây bút truyện ngắn có phong cách độc đáo. Với ý thức cách tân, những sáng tác của ông đã góp phần làm phong phú diện mạo cho nền văn xuôi nước nhà.
Nhà văn Trần Tiễn Cao Đăng, tác giả cuốn tiểu thuyết kỳ lạ Life Navigator 25: Người tình của cả thế gian, chia sẻ những suy nghĩ về cuốn tiểu thuyết mới nhất của mình, quan niệm của riêng anh về văn chương và thế giới.
PHẠM PHÚ PHONG
Văn chương là con đường không phải dễ dàng. Có người đánh cược cả cuộc đời mình với trò chơi chữ nghĩa, trĩu nặng hai vai từ khi còn quẫy đạp trong nôi cho đến khi nằm yên dưới mồ như chiếc nồi úp lại, khép kín cuộc đời, vẫn chưa hiểu nổi luật chơi.
NGUYỄN THỊ TỊNH THY
Chúng ta sinh ra là đàn bà, chúng ta hãy cứ là đàn bà
PHAN TUẤN ANH
“Thái độ của nhà thơ vĩ đại chính là làm cho nô lệ vui vẻ, làm cho những ông vua tàn bạo sợ hãi”.
(Walt Whitman)
NGUYÊN NGỌC
(Trưởng ban sáng tác Hội Nhà văn Việt Nam)
Thế nào là một nhà văn trẻ?
Vũ Trọng Phụng mất năm 27 tuổi. Theo chỗ tôi nhớ, từ ấy đến nay không ai gọi ông là nhà văn trẻ.
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Tính đa thanh (polyphonic) là một trong những đặc trưng phổ biến của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975. Nhưng chủ đích tạo nên cấu trúc đối thoại (dialogic structure) hoàn chỉnh và xuyên suốt thì Nguyễn Việt Hà là cái tên ấn tượng. Càng đặc biệt hơn khi cấu trúc ấy được cấu thành trong sự gắn bó mật thiết với hình tượng “rượu”.