“21 Lê Lai, 22 Lê Lợi”, đã thành thông lệ, cứ đến ngày 21, 22/8 Âm lịch hàng năm, lớp lớp cháu con lại tụ hội về Lam Kinh (huyện Thọ Xuân- tỉnh Thanh Hóa) để thắp nén tâm nhang tưởng nhớ người anh hùng dân tộc Lê Lợi và các vua Lê đã có công giành lại độc lập, yên bình cho đất nước.
Biểu diễn trò Xuân Phả. (Nguồn: TTXVN)
Không những thế, đến với Lễ hội Lam Kinh, là được đến với trò Xuân Phả, với điệu múa dân gian được cho là đặc sắc và độc đáo nhất Việt Nam.
Theo cuốn “Khảo sát Trò Xuân Phả” của tác giả Hoàn Anh Nhân, Phạm Minh Khang, Hoàng Hải (Nhà xuất bản Âm nhạc, Hà Nội) thì: “Trò Xuân Phả đã từng vài lần được triều đình nhà Nguyễn vời vào Huế để biểu diễn chốn cung đình cho vua và các quan trong triều xem. Mỗi chuyến “lưu diễn” như vậy có tới cả trăm người.
Năm 1935, chính quyền đô hộ Pháp định đưa đoàn nghệ nhân biểu diễn Trò Xuân Phả sang Paris trình diễn, nhưng năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp nổi lên, việc không thành. Tuy nhiên, đến cuối năm 1936, vua Bảo Đại mời diễn trò Xuân Phả tại Hội chợ Kinh đô Huế.”
Ngày nay, trò Xuân Phả cũng được chọn làm đại diện cho văn hóa dân gian xứ Thanh trình diễn ở các sự kiện lớn của đất nước như sự kiện “Chào Thiên niên kỷ mới” (năm 2000), “Festival Huế,” “1.000 năm Thăng Long-Hà Nội”…
Đặc biệt nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng trò Xuân Phả một đỉnh cao của múa dân gian đất Việt, xem múa Xuân Phả, người ta dễ cảm nhận được vẻ đẹp lung linh của một viên ngọc quý. Thậm chí có người đã ví trò Xuân Phả với điệu Cheoyongmu (Múa mặt nạ) của người Hàn Quốc hay như một “lễ hội hóa trang” của người phương Tây nhưng lại mang đậm yếu tố cung đình và dân gian Việt trong từng điệu múa.
Thế nhưng, cho đến nay, vẫn chưa có một nghiên cứu chính thống nào về các điệu múa này, nhưng một số nhà văn hóa dân gian khi tìm hiểu về trò Xuân Phả đều khẳng định đây là những điệu múa mang tính liên tục, như một vở diễn có 5 lớp tương đương với 5 trò diễn và đậm chất của người Việt cổ, nói về việc 5 quốc gia hay 5 phương đến chúc mừng vua Lê sau khi thắng giặc trở về.
Trò Xuân Phả phản ánh một thời kỳ hưng thịnh của vương triều Lê Sơ sau cuộc kháng chiến chống giặc Minh thắng lợi, ca khúc khải hoàn. Vì vậy có thể khẳng định trò Xuân Phả chính là thông điệp về sự giao hảo của quốc gia độc lập tự chủ với các nước trong khu vực và vị thế của nước Đại Việt thời bấy giờ là rất lớn, khiến cho các nước láng giềng phải mang lễ vật sang tiến cống.
Truyền thuyết kể lại rằng, vào thời vua Lê, khi đất nước có giặc ngoại xâm, nhà vua cho sứ giả đi khắp nơi cầu bách linh, bách tính và hiền tài cùng nhau đứng lên đánh giặc cứu nước. Khi quan quân đi đến bờ sông Chu, gần làng Xuân Phả thì gặp giông tố phải trú lại. Đến đêm, thần thành hoàng làng Xuân Phả báo mộng về cách đánh giặc, nhà vua làm theo quả nhiên thắng trận. Đất nước trở lại thanh bình, nhà vua mở hội mừng công.
Trong ngày hội, các nước chư hầu, lân bang đã đến dự hội, vừa tỏ lòng khâm phục vua nước Đại Việt, vừa tỏ mối giao bang hòa hảo. Đặc biệt, các nước chư hầu, các bộ tộc đã mang theo đến hội nhiều điệu múa, hát đặc sắc của dân tộc mình, người dẫn đầu đoàn trò vào múa hát có mang theo một biển gỗ sơn son thiếp vàng giới thiệu về quốc gia, dân tộc mình như Trò Tú Huần mô phỏng hình dáng của một tộc người tới từ hải đảo xa xôi; trò Ai Lao, trò Ngô cũng mang sắc phục của các nước lân bang sang cống tiến vua Đại Việt, trò Hoa Lang (Hà Lan) diễn tả người Hoa Lang sang cống tiến vua Lê... Và đó chính là 5 điệu múa cổ có tên "Ngũ quốc lân bang đồ tiến cống," gồm các trò Chiêm Thành, Ai Lao, Ngô Quốc, Hoa Lang và Lục hồn Nhung (còn gọi là Tú Huần).
Trong trò Xuân Phả, hầu hết các nhân vật tham gia các điệu múa đều phải đeo mặt nạ và các trò diễn hầu như đều do nam giới đảm nhiệm. Mặt nạ mỗi trò lại mỗi khác nhau, ví như trò Hoa Lang, người diễn phải đeo mặt nạ cũng bằng da bò, đội mũ da bò; trò Tú Huần có mặt nạ gỗ sơn các màu hình bà, mặt nạ mẹ và mặt nạ các con, đội mũ làm từ các sợi tre, nứa; trò Chiêm Thành người múa lại ngậm mặt nạ bằng miệng chứ không đeo như các mặt nạ khác...
Các nhân vật tham gia trò diễn ăn mặc sặc sỡ, với màu chủ đạo là màu đỏ, màu xanh và màu vàng. Nhạc cụ dùng trong các trò múa Xuân Phả là những chiếc trống, thanh la, mõ hoặc xênh tre... tạo thành những âm thanh hết sức vui nhộn cùng với những điệu múa, điệu nhảy của các nhân vật tham gia trong từng trò diễn khiến người xem có một cảm giác hết sức rộn ràng.
Trong năm điệu múa thì chỉ có điệu Tú Huần, Ngô Quốc và Hoa Lang có lời hát họa theo, ví như trò Hoa Lang: ''Trò tôi ở bên Hoa Lang/ Tôi nghe chính đức tôi sang chèo chầu/ Khoan là khoan...", đoàn quân Hoa Lang từ phương Bắc xa xôi phải chèo thuyền sang nước Đại Việt dự hội, trên thuyền lại vang lên lời ca tiếng hát ngợi ca nhà vua Đại Việt: "Chúc mừng tuổi vua vạn niên/ Ngai rồng ngự trị dân yên thái hòa..."
Trò Tú Huần lại biểu hiện niềm sung sướng, phấn khởi của nhân dân khi đất nước không còn bóng quân thù với tiếng trống chiêng hồ hởi, vui tươi "Tú Huần là Tú Huần ta/ Sáng sớm rửa mặt đeo hoa ăn trầu/ Tú Huần kia hỡi Tú Huần/ Mẹ đi đánh trống lấy phần con ăn/ Ăn rồi con lại giữ nhà/ Mẹ đi đánh trống rước cha con về..."
Ngoài những nghệ nhân cao tuổi biết và hiểu sâu về trò Xuân Phả, ở đất Thọ Xuân hôm nay còn một "lớp trò" rất trẻ, yêu và đam mê các điệu múa, trò diễn Xuân Phả. Để rồi mỗi năm, cứ vào ngày 10/2 Âm lịch tại đình làng thờ Thành hoàng làng Xuân Phả (xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân) và Lễ hội Lam Kinh (22/8 Âm lịch), hội trò Xuân Phả lại long trọng diễn ra với sự tham gia ngày càng nhiều của du khách thập phương và những người đam mê, gắn bó với những điệu múa độc đáo này.
Đây chính là những tín hiệu lạc quan, đảm bảo cho sự tồn tại đầy sinh động của một loại hình di sản văn hóa văn nghệ quý ở xứ Thanh mang tên “Trò Xuân Phả”.
Nguồn:
NGUYỄN HỮU THÔNG (Dẫn liệu từ miền Trung Việt Nam)I. Có lẽ khi những đoàn lưu dân Việt từ đất Bắc trong quá trình mở cõi về Nam, họ buộc phải có những thích ứng khá táo bạo khi tiếp cận với một vùng địa sinh thái mới lạ, cùng với nền văn hóa của cư dân bản địa tiền trú, ít chất tương đồng, cho dù, tất cả đều chịu sự chi phối của không gian đặc thù Đông Nam Á.
NGUYỄN HỮU NHÀNXa xưa tục ném còn có ở nhiều nơi trong nước. Ở đất bản bộ của Vua Hùng cũng có nhiều làng, nhất là ở vùng Mường không mấy làng không tổ chức ném còn trong dịp hội xuân và hội làng.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Trong nghi lễ vòng đời người của người Tà Ôi, lễ cưới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất và được phản ánh qua những điều cấm kị, kiêng cữ mà mỗi đôi trai gái, gia đình hai bên, những người tham gia đám cưới phải thực hiện.
TRẦN HOÀNGTrên dải bờ biển dài 340 km, từ chân Đèo Ngang đến chân đèo Hải Vân có hàng chục làng làm nghề chài lưới, đánh bắt và chế biến hải sản. Tổ tiên của cư dân các làng biển này đều có gốc gác từ các tỉnh phía Bắc.
TRẦN HOÀNG Cách đây gần 450 năm, khi đề cập tới phong tục và sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân vùng đất từ Đèo Ngang trở vào, tiến sĩ Dương Văn An đã viết: “Xuân sang thì mở hội đua trải, gái lịch, trai thanh. Hè đến thì bày cuộc đấu thăm, dập dìu rộn rã nơi ca, chốn múa…” (1).
LAN PHƯƠNGHuyện Phong Thổ (còn có tên gọi Mường Tso, Chiềng Sa) tỉnh Lai Châu nằm trong vùng núi rừng hùng vĩ với mạng lưới sông suối dày đặc và những thung lũng lòng chảo màu mỡ. Nơi đây tụ hội nhiều dân tộc anh em cùng chung sống như Thái, Dao, H'Mông. Hà Nhì, Giáy... trong đó người Thái (Tay đón, hay Táy Khao) chiếm vai trò chủ thể, cư trú lâu đời với thiết chế bản mường chặt chẽ.
TRẦN HOÀNGCho đến nay cũng chưa ai biết rõ tín ngưỡng thờ cá voi ở các làng chài ven bờ biển Bình Trị Thiên xuất hiện từ bao giờ. Song việc cá voi dạt vào vùng bờ biển này thì đã được sử sách ghi lại từ cách đây gần 450 năm.
PHAN THUẬN ANLễ hội là sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng người và đã có từ lâu trong lịch sử của nhân loại nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ hội phản ánh một cách rõ nét những đặc trưng về lịch sử và văn hoá của mỗi địa phương và của từng quốc gia.
LÊ ANH TUẤNCứ vào độ cuối tháng 11 Âm lịch trở đi thì không khí Tết dường như đã dần dần hiện diện trong cái tiết trời, cây cỏ và trong sinh hoạt thường nhật của người Huế.
TRẦN VŨTrâu là loài động vật thích nghi với hệ sinh thái đầm lầy, ấm, ẩm thuộc khu vực Đông Nam Á. Nó là một nhân tố cấu trúc hữu cơ của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước Việt Nam “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”...
NGUYỄN THỊ SỬUKhông dịp nào bằng lễ Aya (lễ cúng mùa, tết), trên mỗi nóc nhà người Taôi bốc lên nghi ngút thơm lừng hương vị cơm mới hoà quyện với bao món ăn đặc sản bay đi khắp núi rừng.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTrong kỷ niệm về thời thơ ấu của mỗi người ở Huế, thế nào cũng có những kỷ niệm về coi bói ngày Tết, nghĩa là có pha một chút mê tín dị đoan. Bởi vì suy cho cùng, đặc trưng của tinh thần Huế đâu có xa lạ gì với chuyện mê tín dị đoan. Người Huế nhìn vào đâu cũng thấy ngũ hành, vì vậy, thói kiêng cữ hoạc sùng bái lại càng là một thứ đặc sản Huế ở nơi họ.
NGUYỄN THỊ NGUYÊN HƯƠNGTết là một sự kiện đặc biệt trong đời sống của người Việt . Tục lệ về Tết cũng là chuyện “đất lề quê thói”, mỗi nơi có một cách riêng để đón Tết dù Tết mọi nơi cũng tương tự như nhau. Riêng với Huế, tục lệ đón Tết cũng mang những nét đặc trưng của vùng đất từng là kinh kỳ.
NGUYỄN KHẮC XƯƠNGTết miền Trung xưa có thể nói không thể thiếu vắng bài chòi. Đây là một hình thức vui chơi đấu trí cũng như tổ tôm điếm, cờ người, cờ bỏi ngoài Bắc. Bài chòi là hình thức chơi bài lá phổ biến ở các tỉnh Nam Trung bộ như Quảng Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, cũng còn gọi là hát bài chòi.
LÂM TÔ LỘCTrong di sản văn hoá dân tộc ở Việt Nam, múa dân tộc Việt có bề dày lịch sử được xác định bởi những hoa văn hình múa trên trống đồng Ngọc Lũ. Múa truyền thống nổi lên ở các lễ hội. Có người cho rằng người Việt không có thói quen sinh hoạt múa tập thể. Sử sách đã nói đến truyền thống sinh hoạt múa này.
TRẦN HOÀNGThành ngữ Việt có câu: "Vui như tết". Quả là như vậy! Tết vui không phải chỉ vì Tết là dịp để sum họp gia đình, gia tộc, để chú, bác, cậu, dì, bà con nội ngoại và xóm giềng tề tựu, gặp gỡ, thăm viếng nhau dưới một mái đình, mái nhà chung.