Đệ Ngọc Lâm công chúa và những câu chuyện lịch sử

15:09 13/09/2023


TRẦN VĂN DŨNG

Cổng và bình phong đệ Ngọc Lâm công chúa

1. Mở đầu

Hệ thống phủ đệ xưa ở Huế như dấu gạch nối giữa cung đình và dân gian, làm nên một cốt cách Huế rất khác biệt, vừa quyền quý vừa bình dị, vừa sang trọng nhưng lại rất khiêm nhường. Góp phần tô điểm cho nét đặc trưng riêng đó, không thể không nhắc đến đệ Ngọc Lâm công chúa tọa lạc bên dòng sông An Cựu1 hiền hòa. Thời gian có thể làm đổi thay mọi thứ, nhưng chừng nào dấu ấn về đệ trạch của Ngọc Lâm công chúa còn hiện diện, thì những con người, những câu chuyện liên quan vẫn mang dáng vẻ riêng, vẫn phảng phất đường nét từ bao năm xưa cũ của đất Thần kinh.

2. Nàng công chúa có tấm lòng nhân hậu

Kim bài của Ngọc Lâm Thái Trưởng công chúa do họa sỹ Nguyễn Thứ vẽ trên chất liệu màu nước. Nguồn: Tập san BAVH (số 4/1915)

Hoàng nữ Nguyễn Phúc Dĩ Ngu2 -阮福以娛sinh năm Ất Dậu (1885), là con gái trưởng của vua Đồng Khánh, mẹ là Quý phi Nguyễn thị3. Năm Thành Thái thứ 13 (1901), Hoàng Trưởng nữ Dĩ Ngu hạ giá lấy Toản tu Nguyễn Hữu Tý4. Triều đình chiếu theo lệ định cấp nữ trang và phủ đệ tất cả là 2500 đồng. Hoàng thân An Xuyên Quận vương Miên Bàng làm chủ hôn và Hiệp biện Đại học sĩ Cao Xuân Dục sung việc thu xếp tổ chức đám cưới5. Đến năm Duy Tân thứ 2 (1908), đức bà Dĩ Ngu được triều đình tấn phong mỹ hiệu Ngọc Lâm Thái Trưởng công chúa - 玉林太長公主. Về vai vế, vua Duy Tân là cháu gọi Hoàng Trưởng nữ Dĩ Ngu bằng cô, nên mới sách phong cho đức bà làm Thái Trưởng công chúa. Ngoài ra, nhà vua còn ân ban cho đức bà Ngọc Lâm một chiếc kim bài (bài bằng vàng) có mặt trước khắc 6 chữ Hán Ngọc Lâm Thái Trưởng công chúa -玉林太長 公主và mặt sau khắc 2 chữ Hán “Sắc tứ - 敕 賜” bằng vàng chạm nổi và nạm 2 viên hồng ngọc, xung quanh có viền hoa văn hình lưỡng phượng khắc chìm.

Đức bà Ngọc Lâm được báo chí đương thời đánh giá là một vị công chúa “rất thâm uyên Hán học và tính tình rất vui vẻ, nhân đạo, từ bi”6 . Đức bà thường cùng với các thành viên chủ chốt của Hội Lạc Thiện7 tổ chức các buổi múa hát có bán vé nhằm quyên góp tiền ủng hộ cho những địa phương và đồng bào chịu ảnh hưởng bão lũ vượt qua cơn hoạn nạn. Điển hình vào tháng 11 năm Quý Dậu (1933), tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa đón nhận cơn bão mạnh, kèm theo những đợt mưa lớn dồn dập. Không có bất kỳ lời cảnh báo bão lũ nào từ chính quyền thông báo đến người dân. Vài ngày sau, nước từ các con sông nhanh chóng phủ kín khắp đồng bằng, làng mạc chìm trong biển nước, hàng vạn người dân vùng hạ du lâm vào cảnh màn trời chiếu đất. Để có thể san sẻ nỗi đau mất mát của đồng bào trong cơn bão lũ, đức bà Ngọc Lâm đã bàn bạc cùng với Mỹ Lương công chúa, Tân Phong công chúa mở cuộc hát múa tại Viện Dân biểu Trung Kỳ nhằm vận động lạc quyên để lấy tiền giúp đồng bào tỉnh Bình Phú. Tham dự buổi biểu diễn hát múa có sự hiện diện của vua Bảo Đại, cùng sự góp mặt đông đảo các quan đại thần của chính quyền Nam triều, viên chức trong bộ máy chính quyền Bảo hộ, các nhà tư sản, chủ hiệu buôn lớn,…

Sau một thời gian lâm bệnh, đức bà Ngọc Lâm công chúa đã mệnh chung vào ngày 16/9/1942, hưởng thọ 58 tuổi. Sự ra đi đột ngột của đức bà Ngọc Lâm đã “để lại một mối thương tiếc cho những người được hân hạnh biết ngài hoặc thọ ân ngài”8. Nhận được tin buồn, vua Bảo Đại đã bày tỏ niềm tiếc thương sâu sắc, hạ dụ định ngày 24/9/1942 sẽ cử hành tang lễ đức bà Ngọc Lâm công chúa và ban thụy hiệu là Mỹ Thục 美淑.

Từ Đà Lạt trở về Huế, vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương liền cùng Đoan Huy hoàng thái hậu ngự giá đến đệ của Ngọc Lâm công chúa, gần cung An Định vào lúc 4 giờ chiều ngày 16/9/1942. Đi theo hầu có quan Đổng lý Ngự tiền Văn phòng Trần Văn Lý, hoàng tùng đệ Vĩnh Cẩn và các quan chức ở Ngự tiền Văn phòng. Tại đệ trạch có Phò mã Nguyễn Hữu Tý, Thượng thư Bộ Lễ nghi Ưng Úy, Kiêm nhiếp Tôn Nhơn Phủ Tôn Thất Cổn và Phủ thừa Nguyễn Tiến Lãng túc trực nghênh giá. Khi đến đệ Ngọc Lâm công chúa, vua Bảo Đại, Đoan Huy hoàng thái hậu và hoàng hậu Nam Phương đã đến tưởng niệm trước linh cữu đức bà Ngọc Lâm đặt ở gian giữa chính đường và thắp nén hương tưởng nhớ.

Đám tang đức bà Ngọc Lâm công chúa đã thu hút sự quan tâm theo dõi sát sao của báo giới và dư luận xã hội lúc bấy giờ. Báo Tràng An đặt tòa soạn tại Huế đã có nhiều bài viết tường thuật chi tiết về lễ tang đức bà Ngọc Lâm. Do dung lượng của bài viết, chúng tôi không dẫn ra đây. Đó là một nguồn tư liệu rất đáng tin cậy, giúp cho người đời sau hình dung rõ nét hơn về các nghi thức trong tang lễ truyền thống của một vị công chúa triều Nguyễn mà sử liệu chính thống quan phương được biên soạn theo dạng biên niên dưới thời Nguyễn ít đề cập đến.

3. Không gian sống và chốn thờ tự

Niên hiệu Thành Thái năm thứ 13 (1901), Hoàng Trưởng nữ Dĩ Ngu kết hôn với Toản tu Nguyễn Hữu Tý, và theo lệ định được triều đình cấp tiền bạc để dựng đệ trạch làm nơi sinh sống. Sau đó, bà chúa bỏ tiền riêng ra mua một mảnh vườn rộng 2.834,65m2 nằm bên dòng sông An Cựu thuộc làng Dương Phẩm để xây dựng đệ trạch. Vị trí đệ hoàng nữ Dĩ Ngu có phía Bắc giáp tư thất của Nguyễn Văn Kiêm, phía Đông giáp tư thất của công tôn Bửu Phong9, phía Tây giáp tư thất của Cu Ho, phía Nam giáp sông An Cựu (tức sông Phủ Cam); và cũng nằm gần phủ Kiên Thái Vương, cung An Định10.

Bản vẽ mốc giới thửa đất tọa lạc đệ Ngọc Lâm công chúa vào năm 1930


Xét về phong thủy đây là cuộc đất đầy vượng khí. Tổng thể kiến trúc đệ Ngọc Lâm công chúa gồm các hạng mục: bến nước, cổng, bình phong, nhà chính, nhà phụ và sân vườn. Đến năm Duy Tân thứ 2 (1908), đức bà Dĩ Ngu được triều đình sách phong làm Ngọc Lâm Thái Trưởng công chúa. Tháng 6 năm đó, đức bà được vua Duy Tân chuẩn cấp 750 đồng để tu bổ đệ trạch11 .

Sau khi Ngọc Lâm công chúa qua đời, Phò mã Nguyễn Hữu Tý đã cho xây dựng thêm một nhà rường kiểu 1 gian 2 chái nằm trong khuôn viên đệ trạch để làm nơi thờ tự vong linh công chúa; còn ngôi nhà rường 3 gian 2 chái (nơi cư trú của bà chúa khi còn sống) vẫn được sử dụng làm nơi ăn ở của Phò mã Nguyễn Hữu Tý cùng con cháu.

Trải qua hơn 120 năm, kiến trúc đệ trạch Ngọc Lâm công chúa đã bị biến đổi rất nhiều trong quá trình đô thị hóa. Trong thâm tâm chúng tôi không khỏi lấy làm xót xa, thời gian đã làm mờ đi nhiều giá trị xưa cũ. Bởi nơi đây từng hiện diện một cơ ngơi tòa ngang dãy dọc, khu vườn rộng rãi bốn mùa cây trái xum xuê. Mà giờ đây diện tích sân vườn đệ trạch rộng hàng ngàn mét vuông bị chia năm xẻ bảy, nhiều nhà cao tầng mọc lên san sát khắp nơi làm phá vỡ cảnh quan kiến trúc truyền thống. Hiện nay, khuôn viên đệ trạch của đức bà Ngọc Lâm đã bị chia tách thành hai thửa đất khác nhau. Thửa đất tại địa chỉ số 171 Phan Đình Phùng (thuộc phường Phú Nhuận, thành phố Huế) là nơi lưu giữ dấu tích đệ trạch của công chúa Ngọc Lâm khi còn sống, còn thửa đất tại địa chỉ số 167 Phan Đình Phùng là nơi thờ phụng đức bà Ngọc Lâm nhưng lại lùi vào sâu và nhường mặt tiền cho các cửa hàng, nhà cửa hiện đại. Vì vậy, chúng ta quan sát hai vị trí này đều có kiến trúc cổng ngõ và bình phong xưa nằm ở phía trước.

Kiến trúc đệ trạch của đức bà Ngọc Lâm công chúa (tại số 171 Phan Đình Phùng) nay chỉ gìn giữ được bến nước, cổng ngõ và bình phong cổ, còn ngôi nhà chính kiểu nhà rường 3 gian 2 chái chạm trổ tinh xảo đã bị hạ giải vào năm 1990. Cổng và bình phong được thể hiện trên chất liệu tạo hình nề vữa mang vẻ đẹp đầy tinh tế, sang trọng. Cổng vòm       xây bằng gạch, vôi vữa, có trang trí hình tượng quả đào, lựu, hoa sen. Chính giữa cổng, ở mặt ngoài là bức hoành cuốn thư đắp nổi biển ngạch đề năm chữ Hán “Ngọc Lâm công chúa đệ - 玉林公主第” (Đệ của Ngọc Lâm công chúa), và mặt trong của cổng cũng được tạo tác bức hoành đề ba chữ Hán “Xích ngũ thiên - 尺五天”12

Biển ngạch đề năm chữ Hán “Ngọc Lâm công chúa đệ - 玉林公主第” (Đệ Ngọc Lâm công chúa)


Sau cổng vòm là bức bình phong có kiểu dáng đặc biệt ít thấy tại các công trình kiến trúc truyền thống khác tại cố đô Huế. Bình phong xây bằng gạch, quét vôi màu trắng và cấu trúc dạng cuốn thư cách điệu. Chính giữa bình phong có trổ chữ Thọ theo lối chữ triện và 5 con dơi (ngũ phúc) chiếm vị trí chủ đạo. Phía trên bình phong có hình tượng quả đào, lựu, Phật thủ và hoa sen được thể hiện rất trau chuốt. Phía dưới chân bình phong còn có các họa tiết trang trí hoa văn mây, sóng nước và hoa dây đan vào nhau. Đã qua bao mùa mưa nắng, thời gian làm cho chiếc cổng và bình phong thêm rêu phong cổ kính.

Bức bình phong trang trí họa tiết tinh xảo tại đệ Ngọc Lâm công chúa


Từ đường đức bà Ngọc Lâm công chúa (tại số 167 Phan Đình Phùng) còn giữ gìn khá nguyên vẹn. Nhà thờ quay mặt nhìn về hướng Nam, phía trước có sông An Cựu chảy ngang làm yếu tố minh đường. Từ ngoài vào trong, nhà thờ gồm có các công trình được xây dựng theo thứ tự sau: cổng, bình phong, nhà thờ chính và sân nhà. Ra vào nhà thờ Ngọc Lâm công chúa có một cổng ngõ hình vòm xây bằng gạch, vôi vữa, tường quét vôi màu vàng, nóc mái trang trí họa tiết hoa lá “hóa” và các hoa văn cách điệu. Chính giữa cổng, ở mặt ngoài, bên dưới mái là kiểu bố cục ô hộc theo chiều dọc tạo nên biển ngạch đề năm chữ Hán: “Ngọc Lâm công chúa từ - 玉林公主祠” (Nhà thờ Ngọc Lâm công chúa). Tả hữu cổng có hai cột trụ thẳng đỡ mái, mũ trụ và chân cột có trang trí hoa văn. Nằm giữa hai trụ có trang trí câu đối bằng chữ Hán nhưng đã mờ nét theo thời gian. Sau cổng vòm là bức bình phong theo kiểu cuốn thư, quét vôi màu vàng và tại vị trí chính giữa có trổ chữ Thọ theo lối chữ triện. Bình phong dùng để che chắn cho nhà thờ khỏi mọi tai ách đến từ bên ngoài.

Toàn cảnh từ đường Ngọc Lâm công chúa


Bước qua tấm bình phong là nhà thờ chính với kiểu dáng nhà rường 1 gian 2 chái13. Toàn bộ tòa nhà này có các cột gỗ khỏe chắc để mộc, bào nhẵn và đứng song hàng từng cặp tựa trên chân đá tảng hình vuông. Hệ thống cột này có khả năng chịu lực lớn, chống đỡ bộ khung nhà bằng gỗ lim. Các cấu kiện trong hệ khung gỗ liên kết bằng kỹ thuật lắp ráp mộng và kèo chồng chắc chắn, tháo lắp dễ dàng. Loại hình liên kết vì nóc ở đây thuộc kiểu vì kèo dân dụng biến thể đặc trưng xứ Huế. Bộ vì kèo nằm bên dưới mái có hai kẽ dài đan chéo nhau ăn mộng (giao nguyên) ở đỉnh vì, đỡ thượng lương (đòn dông) rồi chạy dài theo chiều dốc của mái xuống đầu cột cái ở hàng nhất. Ở mỗi đầu trếnh và đầu kèo có chạm khắc hình ảnh hoa văn hoa lá, bát bửu khéo léo. Chính giữa chính đường là gian thờ chính, được bài trí theo nguyên tắc “tiền Phật hậu linh”, phía trước thờ Phật, phía sau thờ phụng di ảnh và thần chủ Ngọc Lâm công chúa và Phò mã Nguyễn Hữu Tý. Gian tả hữu thiết trí hai bàn thờ để thờ phụng các con cháu hậu duệ đã khuất của gia tộc.

Di ảnh và thần chủ Ngọc Lâm công chúa và Phò mã Nguyễn Hữu Tý


4. Nơi an giấc ngàn thu

Sau khi an táng linh cữu đức bà Ngọc Lâm công chúa tại cuộc đất cát tường về mặt phong thủy ở dưới chân núi Ngự Bình14, thì Phò mã Nguyễn Hữu Tý đã giao cho con trai trưởng là Hiệu úy Nguyễn Hữu Lai coi sóc việc xây dựng viên tẩm. Cấu trúc tẩm mộ của đức bà Ngọc Lâm với các đơn nguyên kiến trúc chính sau: cổng, la thành, bình phong tiền - hậu, bi đình, bia mộ và nấm mộ. Viên tẩm đức bà được xây bằng gạch và làm hoàn toàn bằng chất liệu nề đắp nổi tạo nên chất màu trang nhã, trầm lắng, là một trong những viên tẩm công chúa đẹp nhất còn lưu lại đến ngày nay.

Toàn cảnh viên tẩm Ngọc Lâm công chúa


Nhìn từ xa, cổng kiểu cổ lâu cho chúng ta cảm giác về một công trình kiến trúc vững chãi và đồ sộ. Cổng nằm chính giữa tường thành, được trổ một lối đi, theo dạng cửa vòm và được dẫn lên bằng hệ thống bậc cấp. Đỉnh và các góc mái trang trí họa tiết hoa lá “hóa”. Trên cổng có trang trí các ô hộc hình vuông, hình chữ nhật với hoa văn kỷ hà dạng hồi văn, bát bửu, tứ thời mềm mại và uyển chuyển. Hai bên trụ cổng có trang trí câu đối bằng chữ Hán. La thành được xây bằng gạch, có 1 vòng thành.

Ngay sau vòm cổng là bức bình phong tiền được xây bằng gạch, nằm chính giữa trục thần đạo, có kích thước tương xứng với quy mô tẩm mộ, và mang chức năng chính che chắn tất cả yếu tố bất lợi xâm nhập vào mộ phần. Bình phong có dạng kiểu cuốn thư, trang trí họa tiết chữ Thọ, hoa lá và đặc biệt là hình tượng con dơi chiếm một vị trí đáng kể trên bình phong chính với những tiết điệu bố cục cân xứng, nét khối đắp nề sinh động, lạ mắt. Bi đình nằm ở trước tẩm mộ, đây là nơi đặt bia mộ, bát nhang và thiết soạn quả phẩm phục vụ việc cúng bái. Phía mặt sau bi đình có trang trí họa tiết cây mai, với hình ảnh tượng trưng cho người phụ nữ.

Bi đình, nấm mộ và bình phong hậu tại viên tẩm Ngọc Lâm công chúa


Bia mộ có hình “tam sơn”, với phần trán bia, tai bia, diềm bia được chạm khắc nhiều hình nét hoa văn tinh tế. Trán bia trang trí hình tượng “lưỡng phượng chầu mặt nhật” (hai con chim phượng quay đầu chầu mặt trời). Sự kết hợp những đám mây, tia lửa, hình tượng mặt trời, đôi phượng đã tạo nên tính tượng trưng, tôn vinh về địa vị và danh phận cao quý của chủ nhân tẩm mộ. Diềm và đế bia trang trí hình tượng hoa sen nhằm biểu thị sự thanh bạch và nét thuần khiết tâm linh. Dòng đại tự bố trí chính giữa lòng bia ghi “Ngọc Lâm Thái Trưởng công chúa, thụy Mỹ Thục chi tẩm - 玉林太長公主謚美淑之寢” (Viên tẩm của Ngọc Lâm Thái Trưởng công chúa, thụy Mỹ Thục), có nét chữ khắc sâu, bố cục đăng đối; với dòng lạc khoản: “Bảo Đại Nhâm Ngọ mạnh đông cát đán, Trưởng tử Nguyễn Hữu Lai phụng giám - 保大壬午孟冬吉旦, 長子阮有庲奉 (Buổi sáng tốt lành vào đầu mùa đông năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Bảo Đại [1942]; Con trai trưởng là Nguyễn Hữu Lai kính coi sóc).

Phía sau bi đình là nấm mộ theo kiểu thức “noãn hình” (hình trứng) được xây trên liếp mộ hình chữ nhật. Đây là dạng thức phản ánh quan điểm triết lý Âm - Dương (trên trời/ tròn dưới đất/ vuông), biểu tượng của khát vọng trường tồn, sinh sôi nảy nở. Nấm mộ được đặt tại vị trí quan trọng nhất trong tổng thể khuôn viên tẩm mộ. Tiếp đến là bình phong hậu được giật cao hơn so với la thành. Bình phong xây theo kiểu cuốn thư trang trí hình chim phượng vờn mây bồng bềnh ở vị trí chính giữa tạo nên ấn tượng sinh động, kết hợp phía dưới bệ bình phong hoa lá “hóa” gắn liền với la thành. Bên cạnh hình tượng chim phượng là những motif quả lựu, quả đào, hoa lá được trang trí với bố cục cân xứng, vì vậy chim phượng như hòa mình vào hoa trái, chúng trở nên gần gũi, tao nhã mà vẫn linh thiêng, quý phái. Điều này cho thấy, trong quan niệm phương Đông, viên tẩm của các bà chúa là trang trí hình phượng chiếm vị trí chủ đạo, và cũng là sự tượng trưng cho đức hạnh và sắc đẹp của người phụ nữ Á đông.

5. Lời kết

Tuy xuất thân quyền quý, cao sang nhưng công chúa Ngọc Lâm và Phò mã Nguyễn Hữu Tý luôn giữ lối sống bình dị và tấm lòng nhân hậu. Chính vì vậy, hai ông bà không chỉ được triều thần, quan lại trọng vọng mà còn được người dân quý mến. Dù cho vật đổi sao dời nhưng các giá trị lịch sử, văn hóa nghệ thuật còn lưu giữ, đệ Ngọc Lâm công chúa cùng với các phủ đệ, tư thất của các hoàng thân quốc thích, danh gia vọng tộc nằm dọc hai bên dòng sông An Cựu đã góp thêm một nét rất Huế trong sự tổng hòa vẻ đẹp đi cùng năm tháng của mảnh đất Đế đô. Vì lẽ đó, du khách có thể làm một chuyến du ngoạn đến đệ công chúa Ngọc Lâm như tìm về những hoài niệm của Huế xưa, ẩn chứa biết bao câu chuyện lịch sử một thời vang bóng.

T.V.D
(TCSH414/08-2023)

-----------------------------
1 Sông An Cựu còn có tên gọi khác như Lợi Nông, Phủ Cam... Trong văn bản hành chính của người Pháp thường sử dụng tên sông đào Phủ Cam (Canal de Phu Cam).
2 Hoàng nữ Dĩ Ngu là chị em cùng cha khác mẹ với vua Khải Định.
3 Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2010). Đồng Khánh Khải Định chính yếu. Nxb. Thời đại - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, tr. 307.
4 Phò mã Nguyễn Hữu Tý (1885-1943) là con trai thứ 4 của Vĩnh Quốc Công Nguyễn Hữu Độ, mẹ là bà thứ thất Trần Thị Thảo. Ông có hai người chị gái là Hoàng thái hậu Nguyễn Hữu Thị Nhàn (chính thất của vua Đồng Khánh) và Huyền phi Nguyễn Hữu Thị Nga (thứ thất của vua Thành Thái).
5 Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2012). Đại Nam thực lục Chính biên Đệ lục kỷ phụ biên. Cao Tự Thanh dịch. Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 392.
6 Tràng An báo (1942). “Một cái tang trong hoàng tộc: Ngài công chúa Ngọc Lâm tạ thế”. Số 62 (ra ngày 17/9/1942), Huế, tr. 2.
7 Hội Lạc Thiện thành lập vào năm 1930 tại Kinh đô Huế, với mục đích tập hợp những người có tấm lòng nhân ái, và tổ chức quyên góp giúp đỡ đồng bào bị thiệt hại do thiên tai, dịch họa.
8 Tràng An báo (1942). “Một cái tang trong hoàng tộc: Ngài công chúa Ngọc Lâm tạ thế”. Số 62 (ra ngày 17/9/1942), Huế, tr. 2.
9 Công tôn Bửu Phong là con trai của Kiên Quận công Ưng Quyến (em trai vua Đồng Khánh), cháu nội của Kiên Thái vương Hồng Cai.
10 Mô tả này căn cứ theo nguồn tư liệu còn lưu lại tại từ đường Ngọc Lâm công chúa do ông Nguyễn Hữu Phát (sinh năm 1958), con của cụ Nguyễn Hữu Kiều (1930-1969), cháu nội của Hiệu úy Nguyễn Hữu Lai (1907-1968) cung cấp. Ông Nguyễn Hữu Phát còn cho biết thêm thông tin đệ trạch Ngọc Lâm công chúa xưa có chiều rộng mặt tiền (hướng ra sông An Cựu) gần 70m, tương ứng với địa chỉ số nhà từ 159 đến 173 Phan Đình Phùng hiện nay.
11 Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2012). Đại Nam thực lục chính biên Đệ lục kỷ phụ biên. Tlđd, tr. 544.
12 Theo quy định cách đọc chữ Hán là phải đọc từ phải sang trái: “Xích ngũ thiên - 尺五天”, nhưng trong ngữ cảnh đặc biệt này chúng ta phải đọc chữ giữa trước mới hiểu được thông điệp người xưa muốn nói, tức là “Ngũ xích thiên 五尺天”, nghĩa là cách trời chỉ 5 thước, với hàm ý sâu xa rất gần với trời - chủ nhân ngôi nhà này có thân phận là anh chị em ruột với nhà vua đương triều.
13 Nguyên xưa, mái nhà rường lợp bằng ngói liệt, đến năm 2010 con cháu hậu duệ của đức bà Ngọc Lâm đã cho lợp lại thành mái tôn.
14 Viên tẩm Ngọc Lâm công chúa tọa lạc tại địa chỉ số 139 Ngự Bình, phường An Cựu, thành phố Huế. Tọa độ: 16,444986; 107,595484 [hệ Decimal Degrees - DD].

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)