Đầu xuân đi tìm ông Di Lặc

16:30 16/09/2008
BẢO NHÂNỞ nước ta, Huế được xem là kinh đô của Phật giáo, không phải bởi vì ở đây có nhiều chùa tháp, đông đảo tín đồ theo Phật hay từng có một thời là cái rốn của Phật giáo Việt , biệt xuất nhiều bậc cao tăng đương đại. Theo chúng tôi, nói như nhà viết kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi vì tính cách Huế, không phải Nho, mà chính là Thiền.

Đối với tín đồ Phật giáo, đón Tết mừng xuân gắn liền với ý niệm về một vị Bồ Tát có tên Di Lặc. Di Lặc là hiện thân của mùa xuân, tâm xuân miên viễn, của hạnh phúc viên mãn mà ai ai cũng luôn ý hướng đến.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

Xuân của đất trời tự nhiên có tháng có năm nên có khứ có lai, đắp đổi vô thường tuần hoàn vần vũ: xuân qua hè đến, đông hết xuân về. Xuân của cõi lòng thì không như thế. “Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm. Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu. Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều. Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng…” (Xuân Diệu – Xuân không mùa). Có hạnh phúc thì có mùa xuân. Hạnh phúc thật sự của con người cũng không phải từ bên ngoài đến, mà từ sự buông xả ở ngay nội tâm. Nụ cười hồn nhiên rạng rỡ của ông Di Lặc là biểu hiện của hạnh phúc tràn đầy, của tâm xuân bất diệt ấy.
Di Lặc Bồ Tát - một vị Phật tương lai.

Bồ Tát Di Lặc là nhân vật lịch sử, nhưng cũng mang đầy tính huyền thoại. Lúc Phật Thích Ca còn tại thế, vị Bồ Tát này xuất thân trong một gia đình dòng dõi Bà la môn ở nam Ấn Độ. Di Lặc (Maitreya) là họ, Trung Hoa dịch nghĩa: Từ thị. Tên của Bồ Tát là A Dật Đa (Ajita), Trung Hoa dịch: Vô năng thắng. Sở dĩ mang họ Từ là vì có thuyết cho rằng khi mang thai, mẹ của Bồ Tát khởi lòng từ bi, phát nguyện ăn chay, bố thí, không sát sanh. Di Lặc từng gặp Phật Thích Ca, xuất gia thọ giới Bồ Tát, tu hạnh từ bi hỉ xả, ít người hơn được, thế nên gọi là Vô Năng Thắng. Ông đã được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sàkyamuni) thọ kí sẽ làm Phật ở đời vị lai trong cõi Ta Bà (Sahà) này.
Theo đó Di Lặc sẽ là vị Phật thứ năm(1) và cuối cùng xuất hiện trên trái đất này, hành trạng có nhiều nét giống Đức Phật Thích Ca trong lịch sử. Hiện nay, Bồ Tát đang thuyết pháp giáo hóa ở nội điện của cung trời Đâu Suất (Tushita) - tầng trời thứ tư trong sáu tầng trời cõi Dục.
Trong truyền thống đại thừa, Di Lặc cùng với Văn Thù Sư Lợi, Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, Vô Tận Ý, Bảo Đàn Hoa, Dược Vương, Dượng Thượng là tám vị Bồ Tát - đại đệ tử của Đức Phật. Bồ Tát Di Lặc thường xuất hiện trong các kinh điển nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa như Diệu Pháp Liên Hoa, Duy Ma Cật, Hoa Nghiêm, Viên Giác, v.v… Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, ở phẩm Tựa Thứ nhất có đề cập đến tiền thân của Di Lặc qua lời kể lại của Văn Thù Sư Lợi về Cầu Danh và Diệu Quang Bồ Tát. Diệu Quang là tiền thân của Văn Thù Sư Lợi còn Cầu Danh chính là Di Lặc Bồ Tát. Song ở đây câu chuyện mang nhiều ý nghĩa biểu trưng. Di Lặc là tượng trưng cho Thức(2) - vốn điên đảo mê lầm còn nhiều mắc kẹt giới hạn, còn Văn Thù Sư Lợi ẩn dụ cho trí tuệ viên minh. Thế nên, khi có điềm lành hi hữu, thức không thể suy lường hết được, phải nương vào trí, nên Di Lặc phải thay mặt đại chúng hỏi Văn Thù Sư Lợi. Đồng thời cũng vì thức vốn “quen mất nết” dong ruổi theo danh tướng trần cảnh như thế mà Cầu Danh học đâu quên đó, trần đọa lao đày, nhiêu khê lắm nỗi. Nếu có sự hồi quang phản tỉnh thì thức kia mới chuyển thành trí. Cho nên không ngẫu nhiên mà Cầu Danh phải nhờ Diệu Quang Bồ Tát hướng dẫn.

Tại Trung Quốc, khi pháp môn Tịnh độ chưa thịnh hành, thì tín ngưỡng Di Lặc là xu hướng khá phổ biến. Đọc Đại Đường Tây vực kí, chúng ta biết trên đường thỉnh kinh, Huyền Trang thường niệm danh hiệu Di Lặc cầu sự yểm trợ cho tai qua nạn khỏi từ vị Bồ Tát này và nguyện lúc lâm chung được thác sanh lên cung trời Đâu Suất để thị phụng Bồ Tát. Ở Tây Tạng, Di Lặc vẫn được thờ cúng rộng rãi. Chúng ta có thể hình dung tôn tượng của Di Lặc trong Phật giáo Tây Tạng qua dự án pho tượng Di Lặc bằng đồng cao nhất thế giới (cao 152m) tại Kushinagar, Uttar Pradesh, bắc Ấn Độ.
Những người theo truyền thống Phật giáo đông độ còn biết đến Di Lặc qua truyền thuyết về ba nhân vật lịch sử độc đáo của Thiền tông: Phong Can, Hàn Sơn, Thập Đắc và đặc biệt hơn, là qua giai thoại về Bố Đại hòa thượng.

Bố Đại hòa thượng (? – 916)
Bố Đại hòa thượng, tự Khế Thử, biệt hiệu Trường Đinh Tử, là vị thiền tăng Trung Hoa sống vời đời Lương (Ngũ Đại: 907 – 960), ở đất Minh Ba, huyện Phụng Hóa, Châu Ninh (nay thuộc tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc).
Bên cạnh nhiều thiền thoại siêu ngôn ngữ của một bậc đã đạt đạo như thường thấy ở các ngữ lục, xung quanh hành trạng của vị hòa thượng này có nhiều nét khác người khá nổi bật. Các thư tịch thường miêu tả Sư là người có vóc dáng thấp lùn, mập mạp, bụng phệ da đen, vẻ mặt nhân từ hay mỉm cười vui vẻ, nói năng tự tại thất thường, ăn ngủ tùy tiện, tính tình hài hước ngược đời, xuất xử lạ lùng mang tư chất cuồng thiền. Đặc biệt, Sư thường dùng một cây gậy quảy trên vai một túi vải lớn, trong có đựng bình bát, theo sau có năm sáu đứa trẻ, dạo khắp thôn quê thị thành, thấy ai có vật gì cũng xin, ai cho gì cũng đều nhận tất. Khi túi đã đầy thì vác đến một gốc cây, quy tụ trẻ con và người nghèo… rồi phân phát hết cho họ. Cứ “sớm vác túi đi tối vác về” như thế, nên thiên hạ hài hước “ban” thêm cho Sư một cái tên Bố Đại hòa thượng (hòa thượng vác túi vải). Nhưng với thần thông và tài tiên tri thấu thị thời tiết sau thì ai cũng phải lạy Sư là Hoan Hỷ Phật. Người nào được Sư khất thực thì hôm ấy mua may bán đắt. Gia đình nào có Sư đến hóa duyên thì năm ấy làm ăn thịnh vượng, trên thuận dưới hòa. Tính hay nằm đất mà mình không lấm bụi nhơ. Ngồi ngoài mưa hay trên tuyết nhưng không hề ướt áo. Khi đang nắng mà bỏ dép đi guốc thì trời sắp mưa. Đêm nào ngủ ngoài đường thì sáng mai ắt trời phải khô và nắng đẹp. Viên tịch rồi, người ta vẫn thấy Sư đang rong chơi ở nơi khác.

Cuốn Song Lâm Phó Đại Sĩ Ngữ Lục Hành Thế ghi rằng: “Đến niên hiệu Trinh Minh năm thứ ba, tháng ba, mồng ba, Sư ngồi trên một tảng đá lớn sau chùa Nhạc Lâm thuyết một bài kệ:
Di Lặc chơn Di Lặc
Hóa thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân
Thời nhân giai bất thức

(Ta đây thiệt Di Lặc, hóa ra ngàn vạn thân. Thường đứng trước người đời, người đời chẳng ai biết). Từ đó người ta xem Bố Đại hòa thượng là hóa thân của Bồ tát Di Lặc.
Ông nhịn ăn để mặc – theo cách gọi dân gian
Có thể nói bốn kiểu ảnh vẽ và tượng của Di Lặc như thường thấy ở các chùa đều được gợi cảm hứng từ chân dung của Bố Đại hòa thượng. Thứ nhất, dáng người đứng dang chân, hai tay giơ lên trời, miệng cười to, vẻ mặt rạng rỡ; thứ hai, đứng vác một bao to trên vai; thứ ba, đứng trên một chiếc bao to và thứ tư là kiểu mẫu thường thấy nhất: ngồi cười thoải mái, có năm sáu đứa trẻ vây quanh, đứa chọc mắt, đứa khoáy tai, đứa móc miệng, đứa sờ rốn, v.v. Mỗi kiểu, mỗi dáng đều được tiền nhân tạc theo những ý nghĩa riêng nào đó. Đáng chú ý nhất là kiểu dáng thứ tư. Ở đây sáu đứa bé là tượng trưng cho lục tặc như người Việt ta vẫn thường bảo tam bành lục tặc(3). Di lặc là bậc trí tuệ đã không còn bị phiền não mê hoặc, tự tại chuyển hóa được sáu “nhóc ranh” thành sáu bạn thân để chơi đùa. Thế nên dù chưa thành Phật, ông vẫn hạnh phúc tràn trề. Nhưng dù thể hiện Di Lặc dưới kiểu dáng nào thì mẫu số chung vẫn là những nét độc đáo: người mập đến nỗi không thấy cổ, miệng cười rộng đến cả mép tai, đặc biệt là cách ăn mặc thoải mái luôn trìa cái bụng phệ to tướng cho thiên hạ cười. Nhiều người vẫn bảo rằng cái bụng ấy ngoài ý nghĩa là kho Như Lai tạng vô tận dung chứa tất cả mọi người, mọi hoàn cảnh còn tượng trưng cho hạnh tri túc “thà nghèo mà giữ đạo nhà”. Nụ cười tràn đầy hoan hỷ mà chúng ta vẫn thường gọi nụ cười sung cười sướng thứ 36 ấy là biểu hiện của đời sống nội tâm sung mãn của một người đã buông xả hoàn toàn mọi cố chấp, vướng mắc. Có người miêu tả cái bụng vô tâm và nụ cười hạnh phúc ấy một cách văn vẻ và khéo léo hơn:
Đại đổ năng dung, dung thế gian nan dung chi sự
Từ nhan vi tiếu, tiếu thiên hạ khả tiếu chi nhân

(Cái bụng lớn có thể dung chứa, dung chứa những việc khó dung chứa của thế gian
Nét mặt từ bi chúm chím cười, cười những người đáng cười trong thiên hạ).

Bố Đại hòa thượng chỉ là một trong nhiều hóa thân của Bồ Tát Di Lặc nhưng không hiểu vì sao từ khi Bố Đại hòa thượng xuất hiện, người xưa lại chọn vị thiền tăng “hài hước” này làm nguồn cảm hứng chính để khắc họa chân dung Di Lặc? Phải chăng đây là một sự bổ sung thêm một hạnh tu hoan hỷ, hòa nhã, buông xả bên cạnh hạnh tu nghiêm túc, đoan chánh, mẫu mực. Người Việt , trong thiểu số tính cách dân tộc, có óc hài hước. Cứ nhìn vào kho tàng truyện cười, truyện trạng, thơ văn trào phúng, thơ bút tre và cách nói năng bông đùa hằng ngày thì sẽ thấy. Bởi thế, dẫu không phải là môn đồ của tín ngưỡng Di Lặc, nhưng họ rất thích tượng Di Lặc. Tất nhiên, ở tình huống thắc mắc “ngon ơ” này, họ không “vắng mặt”! Người Việt đã tiên phong giải mã và đưa ra cách gọi in đậm phong cách riêng của mình: Đức Phật Thích Ca lục niên khổ hạnh qua tượng Tuyết Sơn là ông nhịn ăn để mặc, còn Bồ Tát Di Lặc ở những bức tượng to béo, bụng phệ là ông nhịn mặc để ăn(4).

Xung quanh tượng ông “nhịn mặc để ăn” và luôn đem lại sự may mắn này, có người đã “bật mí” nhiều câu chuyện khá thú vị. Trước cửa nhiều ngân hàng của người Hoa thường có tượng ông Di Lặc. Đặc biệt, hầu hết các sòng bạc tại Hoa Kỳ, nơi có đông cư dân gốc Á Châu, trước cửa thường để tượng Di Lặc ngồi. Người ta tin là lấy tay xoa rốn Ông trước khi vào sòng bài sẽ gặp nhiều may mắn. Kinh Phật không hề dạy như vậy, nhưng niềm tin dân gian này đã thành huyền thoại và lây sang cả nhiều người da trắng. Theo một bản tin trên báo O. C. Register hai năm trước, một phụ nữ da trắng Hoa Kỳ trúng số độc đắc đã giải thích, mỗi khi mua vé số tại tiệm tạp hóa quen thuộc ở Huntington Beach, Quận Cam, bà luôn luôn lấy tay xoa bụng tượng Phật Di Lặc trên quầy tiệm này. Không hề gì, Phật Di Lặc không hề kỳ thị tôn giáo.
Vì sao mồng một tháng giêng âm lịch là ngày vía Di Lặc?

Cho đến bây giờ người ta vẫn không biết Di Lặc sanh và viên tịch ngày nào? Nhưng Phật tử không ai không biết ngày Tết Nguyên đán là ngày vía của Di Lặc. Ai đã chọn mồng một tháng giêng âm lịch làm ngày vía Di Lặc?
Có nhiều cách trả lời cho câu hỏi ấy, trong đó tôi thích nhất lời giải thích rằng: Ngày đầu một năm thật quan trọng. Tất cả mọi việc làm, cử chỉ phải thật nhẹ nhàng, thận trọng. Giận ai chi lắm cũng bỏ qua. Gặp nhau niềm nở chúc nhau những điều tốt đẹp. Từng tiếng nói lời ăn phải vui vẻ, hòa nhã. Tập quán đó nói lên lòng ao ước một năm may mắn, an vui, cát tường như ý. Thế nên, ngày mồng một Tết còn là ngày mang ý nghĩa tương lai và một lời chúc chân tình cũng là một lời hứa. Các tín đồ Phật giáo lấy ngày này làm ngày vía Di Lặc - vị Phật tương lai – là để tự hứa hẹn với lòng mình nỗ lực tu hành nhằm xây dựng cõi đời – cõi người hạnh phúc an lạc và rồi mai kia cũng sẽ thành Phật như Ngài.
                                                Huế, những ngày mùa đông bão lụt
                        B.N

(nguồn: TCSH số 227 - 01 - 2008)

 



--------------
[1] Năm vị Phật thuộc Hiền kiếp: 1. Câu lưu tôn, 2. Cân na hàm mâu ni, 3. Ca diếp, 4. Thích ca mâu ni, 5. Di lặc
2 Phật giáo quan niệm rằng Tâm của con người khi tỉnh táo giác ngộ là Trí, còn khi vọng động mê mờ là Thức. Có tám loại Thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức, a lại da thức. Năm thức đầu thuộc về nhận thức của các giác quan. Thức thứ 7 - mạt na thức – gần giống với vô thức theo quan niệm của S. Freud. Tu hành là sự chuyển Thức thành Trí.
3 Tam bành: Bành Sư, Bành Kiển, Bành Chất. Theo quan niệm dân gian, đây là ba vị thần ở trong mỗi người, thường hay xúi giục người ta làm bậy, đến ngày Canh Thân cuối mỗi năm lại còn “mách lẻo” với ông Trời để cho người ta mau chết, các ông khỏi phải ngày đêm canh giữ! Lục tặc: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu cơ quan cảm giác (sáu căn) này khi tiếp xúc với màu sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm, kí ức (sáu trần), thói thường vẫn hay điều khiển con người hành động theo bản năng mê muội để rồi phiền não với thương ghét vui buồn bất an, tự đánh mất sự tỉnh táo, trí truệ của mình. Thế nên chúng được gọi là sáu tên giặc cướp.
4 Xem Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt , Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, tr. 254

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Lời người dịch: Nhà thơ Slam Lisa Martinovic đồng ý cho chúng tôi chuyển dịch bài viết ngắn này, khởi đầu giới thiệu với bạn đọc một phong trào thơ trình diễn Mỹ. Đây là một phong trào thơ được nhà thơ Marc Smith sáng lập tại Chicago.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNMấy tháng trước ngày cơn đại sóng thần - grand tsunami - vỡ trào quét vào vùng biển Ấn Độ vào năm 2004, tàn phá vùng duyên hải của 12 nước ven biển và giết hại 230 nghìn mạng sống, người ta chú ý đến hiện tượng thiên di của các loài động vật.

  • NGUYỄN QUÂNLà một người vẽ mà lại yêu thơ, khi đọc liên tưởng của tôi trước hết là liên tưởng của con mắt. Cái chúng ta quen gọi là hình ảnh, hình tượng thơ … với tôi trước hết là cái có thể nhìn thấy trong đầu, khi đọc thơ.

  • LÊ QUANG THÁIVăn khảo luận ít khi viết năm Mão như văn nói thông thường, chỉ vì chưa định rõ năm nào trong các năm: Ất Mão, Đinh Mão, Kỷ Mão, Tân Mão, Quý Mão. Cho nên, không thể dịch ra tiếng Anh: “Year of the cat” một cách vô tư lự được. Viết quảng cáo lớn chữ “Xuân Tân Mão, 2011” mà lại dịch một cách tùy tiện như trên hẳn là chưa ổn.

  • NGUYỄN DƯ…Bốn cột lang, nha cắm để chồng/ Ả thì đánh cái, ả còn ngong/ Tế hậu thổ khom khom cật,/ Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng/ Tám bức quần hồng bay phới phới,/ Hai hàng chân ngọc đứng song song./ Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,/ Cột nhổ đem về để lỗ không.                                 (Cây đánh đu, Hồng Đức quốc âm thi tập)…

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGTôi mới đọc Xuân Quỳnh gần đây: với tôi, thơ chị ở quá xa. Nhưng càng đọc càng gần lại. Vì chị thường nói về thời gian: Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế/ Chỉ em là đã khác với em xưa

  • LƯƠNG ANMiên Thẩm là một nhà thơ hoàng tộc có tiếng giữa thế kỷ 19. Qua thơ văn ông, chúng ta gặp một con người, tuy bị giai cấp xuất thân hạn chế rất nhiều, song vẫn biểu hiện một ý thức thương dân và một tinh thần lo lắng cho vận mệnh đất nước vốn không phải phổ biến trong tầng lớp nhà nho - trí thức phong kiến lúc bấy giờ.

  • PHONG LÊGiá Bác không đi Trung Quốc? Hoặc giá Bác không bị bọn Tưởng bắt giam? Hoặc nữa, đã có tập thơ, nhưng năm tháng, chiến tranh, cùng bao nhiêu sự cố khiến cho tập thơ không còn về được Viện bảo tàng cách mạng?

  • L.T.S: Bài viết của Trần Đình Sử về đóng góp của thơ Tố Hữu trong việc phát triển thể tài thơ chính trị và khuynh hướng sử thi trong biểu hiện không phải không có nhiều chỗ phải bàn cãi. Tuy nhiên tạp chí vẫn coi đây là một cách tiếp cận mới để khám phá nguồn thơ phong phú của một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Xin giới thiệu bài tiểu luận này để bạn đọc cùng suy nghĩ trao đổi.

  • ĐÔNG HÀVăn chương bắt nguồn từ cuộc sống. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy, mỗi trang viết của anh là một sự khởi nguyên rất chân thật. Không thiên về lối miêu tả nhưng bằng cặp mắt tinh tế sắc sảo của mình, Hoàng Phủ đã “nói” về cuộc sống từ những tinh chất của thiên nhiên và con người Huế đọng lại dưới ngòi bút của anh.

  • VÊ-RA CU-TÊ-SƠ-CHI-CÔ-VAVê-ra Cu-tê-sơ-chi-cô-va là tiến sĩ ngữ văn, giáo sư nghiên cứu ở Học viện Gorki về văn học thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

  • NGUYỄN HOÀN Nhạc Trịnh Công Sơn lâu nay đã “chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả bên ngoài biên giới nữa” (Văn Cao).

  • PHAN NGỌC1- Trong việc nghiên cứu Truyện Kiều, xu hướng xưa nay là đưa ra những nhận xét căn cứ vào cảm thụ thẩm mỹ của mình. Những nhận xét ấy thường là rất tinh tế, hấp dẫn. Nhưng vì quan điểm khảo sát là chỉ phân tích những cảm nghĩ của mình căn cứ đơn thuần vào Truyện Kiều, không áp dụng những thao tác làm việc của khoa học hiện đại, cho nên không tránh khỏi hai nhược điểm:

  • ĐẶNG TIẾNMèo là thành phần của tạo vật, không hệ thuộc loài người, không phải là sở hữu địa phương. Nói Mèo Huế là chuyện vui ngày Tết. Đất Huế, người Huế, tiếng Huế có bản sắc, biết đâu mèo Huế chẳng thừa hưởng ít nhiều phẩm chất của thổ ngơi và gia chủ?

  • TRIỀU NGUYÊNCó nhiều cách phân loại câu đối, thường gặp là ba cách: dựa vào số tiếng và lối đặt câu, dựa vào mục đích sử dụng, và dựa vào phương thức, đặc điểm nghệ thuật. Dựa vào số tiếng và lối đặt câu, câu đối được chia làm ba loại: câu tiểu đối, câu đối thơ, và câu đối phú. Bài viết ngắn này chỉ trình bày một số câu đối thuộc loại câu tiểu đối.

  • KHÁNH PHƯƠNGNăm 2010 khép lại một thập kỷ văn học mang theo những kỳ vọng hơi bị… “lãng mạn”, về biến chuyển và tác phẩm lớn. Nhiều giải thưởng của nhiều cuộc thi kéo dài một vài năm đã có chủ, các giải thưởng thường niên cũng đã… thường như giải thưởng, nhà văn và bạn đọc thân thiết hồ hởi mãn nguyện tái ngộ nhau trên những đầu sách in ra đều đặn… và người thực sự quan tâm đến khía cạnh nghề nghiệp trong đời sống văn chương lại tự hỏi, những sự kiện đang được hoạt náo kia có mang theo trong nó thông tin gì đích thực về thể trạng nghề viết hay không? Nếu có, thì nó là hiện trạng gì? Nếu ngược lại, thì phải tìm và biết những thông tin căn bản ấy ở đâu?

  • MIÊN DIVẫn biết, định nghĩa cái đẹp cũng giống như lấy rổ rá... múc nước. Vì phải qui chiếu từ nhiều yếu tố: góc nhìn, văn hóa, thị hiếu, vùng miền, phong tục... Tiểu luận be bé này xin liều mạng đi tìm cái chung cho tất cả những góc qui chiếu đó.

  • INRASARA1. Điểm lại mười căn bệnh phê bình hôm nay

  • XUÂN NGUYÊNHơn ở đâu hết, thơ mang rất rõ dấu ấn của người làm ra nó. Dấu ấn đó có thể là do kinh nghiệm sống, do lối suy nghĩ… đưa lại. Đứng về mặt nghệ thuật mà nói, dấu ấn trong thơ có thể được tạo nên bởi lối diễn đạt, bởi mức độ vận dụng các truyền thống nghệ thuật của thơ ca.

  • Linda Lê, nhà văn nữ, mẹ Pháp cha Việt, sinh năm 1963 tại Đà Lạt, hiện đang sống tại Paris, viết văn, viết báo bằng tiếng Pháp. Một số tác phẩm của nhà văn đã được dịch sang tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam như là: Vu khống (Calomnies), Lại chơi với lửa (Autres jeux avec le feu). Chị đã có buổi nói chuyện tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Huế vào ngày 15.10.2010 vừa rồi. Sau khi trao đổi về bản dịch, chị đã đồng ý cho phép đăng nguyên văn bài nói chuyện này ở Tạp chí Sông Hương theo như gợi ý của dịch giả Lê Đức Quang.