Trải dòng lịch sử bi tráng của nước Việt, Hải Vân không chỉ là cung đèo kỳ vĩ mà còn đẫm máu xương vệ quốc.
Hải Vân quan được xây từ triều Minh Mạng, xuống cấp dần khi quân Pháp chiếm đóng VN - Ảnh tư liệu
Từ hàng thế kỷ trước, nhiều lữ khách nước ngoài và cả những tay súng thực dân đã vượt ải thiên hiểm này để kể lại bao chuyện xưa bí ẩn...
“Những lần có dịp xuôi Nam ngược Bắc tôi đều cố đi thật chậm, thật chậm qua đèo Hải Vân để cảm nhận hồn thiêng sông núi hội tụ ở đây. Chính thành ải thiên hiểm này đã góp phần tạo nên bao khúc hùng tráng lịch sử của dân tộc Việt”.
Một chiều cuối đông năm 2010, giáo sư Đỗ Văn Ninh trải lòng mình như vậy. Ông tâm sự từ trẻ đã đắm lòng với bài thơ Đèo Hải Vân của Bích Khê: ...
Đường đời thành bại chòm mây bạc
Tiếng cũ anh hùng ngọn gió lau
Nhìn cảnh nước non non nước ấy
Ngàn xưa dâu bể chạnh lòng đau.
Trong mắt Doumer
Chính viên quan toàn quyền Đông Dương Paul Doumer công du qua đèo Hải Vân cũng ngơ ngẩn trước cảnh quan tuyệt vời này.
Nguyên văn hồi ký của Doumer được in lại trong cuốn Những người bạn của cố đô Huế, tập VII, 1920:
“Bây giờ chúng tôi ở đỉnh đèo. Con đường bị chặn lại bởi một thành phòng thủ người An Nam chắc chắn, đẹp mắt, thế đứng uy nghiêm. Cũng như chúng tôi, thành thu mình trong sương mù. Lính gác thành của vua đưa ngựa mới cho tôi cùng với thức ăn.
Chúng tôi uống một chén trà và lên ngựa, khi chúng tôi mới đến thì mây xung quanh chúng tôi bay nhanh hơn, bay dồn dập, tan loãng và biến mất vì gió thổi. Thế là không gian khô ráo, trong trẻo, có ánh nắng. Tất cả sáng ra dưới mắt chúng tôi, bên dưới chúng tôi cửa biển Đà Nẵng hiện ra.
Thật là mê mẩn. Không có một cảnh thần tiên nào ở bờ biển Địa Trung Hải mà vừa đẹp mắt vừa lớn lao như vậy...”.
Viên toàn quyền Đông Dương về sau còn nhiều lần qua lại đèo Hải Vân với tầm nhìn vừa lãng mạn của một nhà du hành vừa rất lý trí của người phương Tây: “Ta đưa cái cửa biển đẹp nhất của Pháp trên bờ biển Côte d’Azur để làm ví dụ.
Lấy diện tích của nó mà nhân với 10, lấy các vùng đất được trông thấy và độ cao của các địa thế xung quanh mà nhân với 100 thì đáp số sẽ là Đà Nẵng gồm cái vịnh và cánh đồng bằng được nhìn thấy từ đèo Hải Vân ở độ cao 500m so với mặt nước biển.
Thật vậy, chỉ riêng cái cảnh trời nước ở đây cũng đủ kêu gọi những kẻ nhàn rỗi thực hiện một chuyến du lịch từ Pháp sang Viễn Đông để thưởng thức biết bao sự vật quyến rũ và kỳ thú”.
Mê mẩn với cảnh biển trải dài từ Huế vào nhưng Doumer cũng không bỏ sót cảnh núi rừng thâm u, hùng vĩ của đèo Hải Vân mặc dù đã có sự tác động của người Pháp khi làm lại con đường này:
“Kia là đường mòn của người An Nam chạy lên đèo, chẳng khác gì các đoạn đường mòn khác mà chúng tôi đã đi qua. Nó chạy theo đường thẳng, dốc dựng đứng, sạn đá gồ ghề giống một chuỗi bậc cấp thì không đúng, mà phải nói là giống một cái thang leo áp một bức tường đứng thẳng...
Đường đèo Hải Vân tiến tới, chạy quanh co giữa các bức tranh phong cảnh tuyệt vời, bám sát vào núi, thỉnh thoảng lõm xuống như các giao thông hào, rồi trồi lên băng qua các cây cầu bạo dạn trên các ngọn đồi... với quang cảnh thiên nhiên hùng vĩ, với muôn vạn loài cây cỏ đã mang đến cho nó một bối cảnh không gì có thể so sánh được”.
Đó chỉ là một ít trong những gì Doumer đã nhìn thấy vào tháng 3-1897. Đây cũng là lần đầu tiên viên toàn quyền Pháp đến Huế bằng hộ tống hạm I’Isly, và trung chuyển từ cửa Thuận An lên kinh thành với thuyền hơi nước.
Khi trở về, ông ta đã quyết định đi ngả bộ theo con đường thiên lý từ Huế qua đèo Hải Vân để đến Đà Nẵng. Từ đây, ông ta mới lên tàu thủy vào Sài Gòn. Doumer đã vượt cung đèo này bằng ngựa với cả đoàn người gồm lính thủy đánh bộ Pháp và cả quan lính triều đình Huế.
Đó là thời điểm cung đường qua núi này đã được công binh Pháp “chỉnh gọt” bớt hiểm trở nhưng vẫn còn nhiều nguyên trạng vì công trình chưa thể hoàn thành.
Thâm tâm Doumer (về sau trở thành tổng thống Pháp) có lẽ cũng ngậm ngùi nhắc nhớ bao quân tướng thực dân từng sa lầy, không thể vượt qua nổi thành ải tự nhiên này để uy hiếp kinh thành Huế.
Chính từ đó cuộc viễn chinh xâm lược bằng ưu thế pháo hạm phải chuyển vào sông Sài Gòn rồi khởi lan ra khắp Nam kỳ.
Và không chỉ Paul Doumer mà nhiều người phương Tây xưa đã từng đặt chân qua đèo Hải Vân. Khởi đầu từ thế kỷ 16 là người Bồ Đào Nha rồi đến người Anh, người Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha... Có người là giáo sĩ, là thương nhân, nhà hàng hải thám hiểm, sĩ quan quân đội. Rất nhiều ghi chép, du ký của những người phương Tây từng bước chân trên con đường thiên lý chập chùng núi đèo thiên hiểm này.
![]() |
Đoạn giữa đèo Hải Vân - Ảnh tư liệu |
Hải Vân và giọt lệ Huyền Trân
Sử quán triều Nguyễn kể rằng ngọn núi cao nhất trên dải Hải Vân Sơn được vua Minh Mạng ban tên là Cao An Lĩnh với độ cao 1.192m.
Tuy nhiên, đó chỉ là một trong cả dải quần sơn có địa thế giống như một bức tường thành chắn ngang xứ Huế và đất Quảng, tạo nên hai nền khí hậu khác biệt. Trong đó phía bắc Hải Vân có các ngọn Hải Sơn, Bà Sơn, phía nam giáp với đất Quảng có núi Thông, núi Liên, Chân Sảng, Sơn Chà.
Các triều vua Nguyễn về sau đã đổi tên một số ngọn núi này, khác với danh truyền từ dân gian.
Sử xưa kể rằng chính Chế Mân, vua Chiêm Thành, vì muốn cưới công chúa Huyền Trân đã trao “sính lễ” là hai châu Ô, Lý cho vua Trần Anh Tông nước Đại Việt. Với quà cưới là núi rừng hoang vu “ngàn dặm vuông” này, Hải Vân hoàn toàn nằm trong châu Lý.
Nhà Trần tiếp nhận đã đổi tên thành châu Thuận và châu Hóa. Và Hải Vân lúc ấy thuộc huyện Tư Dung, châu Hóa.
Cái tên Tư Dung bắt nguồn từ câu chuyện Huyền Trân công chúa ly hương đến viễn quốc. Tư là tưởng nhớ, dung là dung nhan mỹ nhân nước Việt. Đây cũng là nơi mà Huyền Trân đã quỳ bái biệt cố quốc nên địa danh được đặt tên là Tư Dung, tri ân phận má hồng đã chấp nhận thiệt thòi cho đất nước.
Chính vua Lê Thánh Tông khi qua Hải Vân, cảm thán tấm lòng người xưa và cảnh non sông thiên hiểm, đã làm bài thơ Tư Dung hải môn lữ thứ:
Thuyền lâu nổi trống đến Ô Long
Cửa ải sông đây hiểm lạ lùng
Chặn giặc núi xanh bày rợp mắt
Liền trời sóng vỗ biếc muôn trùng
Dấu xưa sự nghiệp bao triều đại
Đất cũ nhà Nam vạch núi sông...
Người đời sau, tiến sĩ Dương Văn An triều Mạc, biên soạn Ô Châu cận lục, đã tả về Hải Vân:
“Núi ở cửa Hải Vân, huyện Tư Vinh (đời Mạc đổi tên Tư Dung thành Tư Vinh - PV). Chân sát lợi bể, ngọn ngất từng mây; núi chia hai đường nam bắc, mây đưa những khách đi về. Chính là giới hạn chia hai tỉnh Thuận Hóa với Quảng Nam rất là hiểm hóc.
Từ địa phận Thuận Hóa, theo đường bộ ước hơn một ngày đường thì đến địa phận Quảng Nam. Thật là một nơi xung yếu lớn của hai hạt, ở đó lập đồn ải để canh phòng”.
___________
Tổ tiên triều Nguyễn đã thấy thế thiên hiểm của Hải Vân. Họ căn dặn con cháu phải biết dạy dân, luyện binh để gìn giữ cơ nghiệp đến muôn đời.
Theo TTO
Đất nước đang trên hành trình 30 năm Công cuộc Đổi mới, kể từ năm 1986. Nền văn học nghệ thuật của nước nhà cũng vậy, đang hướng đến việc đánh giá chặng đường 30 năm đổi mới. Văn nghệ xứ Huế trong 30 năm qua cũng đã có những thành tựu mới, cũng có những hạn chế cần được gợi mở để cho những trang viết về sau vượt qua, sung mãn hơn, nghệ thuật hơn, đầy trách nhiệm nhân văn hơn. Kể từ số báo này, Sông Hương sẽ khởi đăng những bài viết nghiên cứu liên quan đến chủ đề này. Việc nhìn nhận lại văn nghệ Thừa Thiên Huế sẽ được giới thiệu đầy đủ hơn trong các số báo tiếp theo, sau khi Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế và Tạp chí Sông Hương tổ chức hội thảo về Văn học Thừa Thiên Huế 30 năm đổi mới 1986 - 2016 vào khoảng tháng 6 tới đây.
“Ngài” rùa đá được xem như một trong hai linh vật để trấn yểm vùng đất Phú Lộc (Thừa Thiên - Huế), trên đầu “ngài” còn có một chữ Vương.
Huế có những sáng mờ sương, sương giăng kín những tuyến phố, bầu trời như sà xuống tận đầu người, xứ Huế vốn mộng mơ càng thêm huyền ảo.
Lối kiến trúc độc đáo thuộc hệ phái thevarada (Nam tông) tạo cho chùa Thiền Lâm một nét đẹp khác biệt so với các cổ tự đất cố đô.
Cố đô Huế bây giờ không còn trầm mặc, phong cảnh về đêm thật quyến rũ bởi việc chiếu sáng nghệ thuật cầu Trường Tiền.
Sáng 10-3, Sở VHTT&DL tỉnh Thừa Thiên- Huế phối hợp với UBND huyện A Lưới đã tổ chức lễ hội Ariêu Car_một trong những lễ hội văn hóa truyền thống lớn với sự tham gia đông đảo cộng đồng người dân tộc thiểu số Pa Cô, Tà Ôi, Cơ Tu, Pa Hy đang sinh sống ở địa bàn vùng cao huyện A Lưới .
Nhà vườn An Hiên, phủ thờ Công chúa Ngọc Sơn, Xuân Viên Tiểu Cung... là những nhà vườn đẹp bậc nhất xứ Huế. Hệ thống kiến trúc dân gian này là một điểm nhấn trong khám phá nét đẹp văn hóa Cố đô.
Lễ hội A riêu Car là dịp để các dân tộc hội tụ, thể hiện tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống.
Là món ăn có cái tên khiến nhiều người phải ngẩn ra vì nghe quá lạ, canh chột nưa chinh phục thực khách bởi hương vị đậm chất quê và cái tình của người dân Huế.
SHO - Sáng ngày 21/2 (14 Tháng Giêng năm Bính Thân), Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã tổ chức chuyến đi Viếng mộ thi nhân tại các nghĩa trang trên địa bàn thành phố Huế tưởng nhớ các văn nghệ sĩ đã khuất . Đây là năm thứ tám văn nghệ sĩ Cố đô Huế tổ chức đi viếng mộ thi nhân vào dịp Tết Nguyên tiêu.
Không biết có tự bao giờ mà hoa tre là lễ vật không thể thiếu trong lễ "cúng bổn mạng" đầu năm của mỗi gia đình xứ Huế. Nội tôi kể rằng: Thuở xưa khi chưa có "ông tổ" khai sinh ra loại hoa tre thì người ta "cúng bổn mạng" bằng hoa thọ. Hoa thọ mang ý nghĩa trường tồn, cầu mong được sống lâu để sum vầy cùng con cháu.
Là kinh đô xưa cổ còn được lưu giữ gần như toàn vẹn nhất cho đến bây giờ, Tết ở Huế tượng trưng cho sợi dây liên kết giữa quá khứ và hiện tại.
Cặp rắn này chỉ xuất hiện tại chùa vào các ngày sóc vọng (các ngày 1, 15, 30 hàng tháng) và trú lại qua đêm trong hang cây da cổ thụ rồi lặng lẽ bỏ đi. Thấy chuyện lạ, một số người cho rằng đây là đôi rắn “có chân tu” nên mới về chùa để “nghe giảng giải kinh Phật”...
Bấy lâu nay, nhiều người dân, du khách vẫn thường nhắc đến con rùa khổng lồ thi thoảng xuất hiện trên dòng sông Hương, đoạn trước mặt điện Hòn Chén (thuộc thôn Ngọc Hồ, phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, Thừa Thiên – Huế). Người dân địa phương gọi đó là “rùa thần”.
Có thể nói, trong số hàng trăm sản phẩm bằng tre của các nghệ nhân làng Bao La (xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế) tạo nên, chúng tôi ấn tượng nhất là đèn lồng các loại. Từ đèn ú, đèn lục giác, bát giác… Tuy khác nhau về mẫu mã, hình dáng nhưng tất cả đều chan chứa tâm tình, gửi gắm “cái hồn” của làng nghề nơi đây.
Bên cạnh lớp nghệ nhân "vàng", lớp những nghệ sỹ "măng non" - nghệ sỹ trẻ là thế hệ mới sẽ đồng hành cùng nghệ thuật Ca Huế trên con đường phát huy giá trị di sản này ra cộng đồng, tiến tới hội nhập di sản quốc tế. Do đó, việc làm sao để truyền lại vẹn nguyên bản sắc, đúng cái "chất" của Ca Huế cho lớp nghệ sỹ trẻ kế tục cũng đang là vấn đề được các ban, ngành quan tâm.
Chuyên đề trọng điểm của số báo này, dành nhiều trang về Hoàng Phủ Ngọc Tường - nhà văn, nhà văn hóa Huế. Những trang văn của ông, như chiếc đũa thần, thức dậy những vỉa tầng văn hóa Huế. Một điều khác, ông cùng bạn bè thuở ấy, với một hệ mỹ cảm khác biệt, đã tạc vào văn nghệ Huế, Việt Nam những giá trị trường cửu.
Với những giá trị mà cổ vật cung đình Huế vốn có, và với “quê hương” nó được sinh ra, cố đô Huế xứng đáng đón nhận lại những cổ vật quan trọng một thời của cha ông.
Với những giá trị mà cổ vật cung đình Huế vốn có, và với “quê hương” nó được sinh ra, cố đô Huế xứng đáng đón nhận lại những cổ vật quan trọng một thời của cha ông.
Tại Huế, toàn bộ các ấn quý bằng vàng, bạc, ngọc hay còn gọi là Kim Ngọc Bảo Tỷ đến nay không còn một chiếc nào. Có lẽ thật sự đây là điều đáng tiếc nhất khi xuất xứ những chiếc ấn quý đó đều từ Huế mà ra.