MỘC MIÊN (*)
Là một trong những cây bút trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ là người có duyên thầm trong thơ mà còn có duyên kể chuyện đặc biệt là những câu chuyện dành cho lứa tuổi thiếu nhi.
Ảnh: internet
Bà đã ghi dấu trên chặng đường văn học thời kỳ đổi mới với những tác phẩm như: Bỏ trốn, Đứa bé mất cha, Xóm đê ngày ấy, Tuổi trăng rằm, Học trò lớp 9. Một trong những yếu tố tạo nên phong cách riêng của truyện thiếu nhi Phan Thị Thanh Nhàn đó là sự tiếp biến văn hóa dân gian trong sáng tác của bà. Những chất liệu dân gian được tác giả khai thác, chắt lọc, làm mới đưa vào sáng tác của mình một cách khéo léo tạo hiệu ứng tối đa cho tác phẩm “sáng” lên lấp lánh vừa gần gũi mà cũng vừa mới lạ, vừa cách tân hiện đại nhưng cũng vừa dân dã, truyền thống.
Dấu ấn dân gian trong quan niệm nghệ thuật về con người
Quan niệm con người chính là sự khám phá, phản ánh con người trong tác phẩm của nhà văn. Với Phan Thị Thanh Nhàn, khi xây dựng hệ thống nhân vật trong những tác phẩm dành cho thiếu nhi bà đã thổi vào đó chất liệu dân gian rồi khéo léo cách tân, tạo nên những hình tượng nhân vật vừa mới mẻ vừa phảng phất phong vị dân gian.
Phan Thị Thanh Nhàn khéo léo xây dựng những hình tượng nhân vật có những phẩm chất tốt đẹp là kết tinh của những giá trị tâm hồn người Việt. Đó là Bà ngoại của cái Thi trong Bỏ trốn, bà khiến chúng ta liên tưởng đến người bà trong truyện cổ tích Bà cháu, là hiện thân của sự bao dung, nhân hậu, giàu lòng vị tha. Bà chắt chiu, yêu thương và hết mực lo lắng cho đứa cháu côi cút. Đến lúc sắp lìa đời, nỗi bận tâm duy nhất vẫn là đứa cháu bé bỏng gặp nhiều bất hạnh. Hay bà của Hiên trong Đứa bé mất cha cũng thế, ở tuổi xế chiều, trước sự tan vỡ gia đình của con trai, điều bà lo lắng chính là đứa cháu trai đang phải đối mặt với cú sốc quá lớn. Bà của Nụ trong Tuổi trăng rằm dù chỉ được nhắc đến bởi vài câu văn ít ỏi trong toàn bộ tác phẩm nhưng vẫn có thể làm nhói lòng người đọc bởi những dằn vặt về nỗi đau mất cháu đã nhiều năm. Trong những trang viết của Phan Thị Thanh Nhàn, hình ảnh người bà là hiện thân của những người bà trong cổ tích bước ra để yêu thương những đứa cháu của mình cho đến hết cuộc đời.
Trong Học trò lớp 9, bố của Nghĩa là người cha hết mực thương con “Con tôi không được bình thường. Nên tôi thương nó hơn thương chính mình” và cũng rất yêu vợ “Vợ tôi phải cái nói nhiều. Nhưng mà vẫn cứ… đáng yêu như thường”. Mẹ Nghĩa là người đàn bà yêu chồng yêu con, dù nghèo nhưng giàu lòng tự trọng “Bà dù nghèo nhưng quyết không tiêu tiền của người khác”. Bố mẹ Nghĩa như là một minh chứng cho những câu tục ngữ: “Giấy rách phải giữ lấy lề”, “Đói cho sạch rách cho thơm” như là kết tinh giá trị tốt đẹp của tâm hồn Việt. Chính những giá trị ấy quyện vào trang viết của Phan Thị Thanh Nhàn, một lần nữa nó tỏa sáng và có sức cảm hóa mạnh mẽ, vì thế mà khi đọc truyện của Phan Thị Thanh Nhàn, người đọc, đặc biệt là bạn đọc nhỏ tuổi không có cảm giác mình bị “dạy dỗ” về bài học làm người, về đạo lý tốt đẹp của dân tộc một cách cứng nhắc, giáo điều. Người đọc sẽ như hóa thân vào nhân vật để tự cảm, tự thấm những giá trị nhân văn ấy để dần hoàn thiện nhân cách.
Dấu ấn dân gian trong lựa chọn đề tài và phản ánh hiện thực
Lựa chọn đề tài viết cho thiếu nhi, Phan Thị Thanh Nhàn đã ghi dấu ấn trong lòng độc giả bởi những câu chuyện giản dị mà lôi cuốn người đọc qua từng biến động của cuộc đời nhân vật trên từng trang sách. Với năm tác phẩm dành cho thiếu nhi, chúng ta không khó để nhận ra hành trình sáng tạo của nhà văn trong mỗi tác phẩm chính là hành trình trở về với cội nguồn văn hóa, văn học dân gian. Hình ảnh những em bé mồ côi chịu thương chịu khó, chăm ngoan và hiếu thuận, những em bé thông minh, những người bà nhân hậu và giàu đức hi sinh,… trong những câu chuyện cổ tích, truyện cười mãi là hình ảnh đẹp với bất kì ai và nó thực sự là nguồn cảm hứng, là sự ám ảnh không nguôi đối với những người cầm bút. Viết cho thiếu nhi, Phan Thị Thanh Nhàn cũng xây dựng cho tác phẩm của mình một hệ thống nhân vật trẻ em mang dáng dấp những số phận và tính cách của những nhân vật trẻ em trong cổ tích. Đó là Thi mồ côi mẹ, bố đi lấy vợ khác. Là Nụ mất mẹ bởi bom đạn của chiến tranh. Côi không biết bố mẹ ruột của mình là ai. Là Thu, Vương, Hiên, Hoa, Thái, Luân,… dù còn cha mẹ nhưng cũng chẳng khác gì mồ côi bởi sự tan vỡ của gia đình, được ở với cha thì không thấy mẹ, được ở với mẹ thì không thấy cha. Điểm chung của các em là luôn khao khát một mái ấm gia đình, được che chở và yêu thương. Đó là những em bé luôn chăm ngoan học giỏi, và dù cuộc đời với những biến cố đã xô đẩy các em vấp ngã thì cuối cùng những cô bé, cậu bé ấy vẫn luôn vươn lên, luôn hướng về những giá trị nhân văn để tự hoàn thiện tâm hồn mình. Những câu chuyện của Phan Thị Thanh Nhàn còn tạo nên sự thú vị cho bạn đọc bởi những tình tiết vui nhộn xoay quanh sự nghịch ngợm, lém lỉnh của các em - những cô cậu bé thông minh như trong cổ tích, trong truyện cười dân gian. Là sự dũng cảm của Gái trong Xóm đê ngày ấy khi một mình vật lộn với vợ chồng kẻ gian để lấy lại tài sản cho mẹ bạn. Là sự thông minh, mưu trí của nhóm bạn Nghĩa, Vương, Loan với hành trình tìm cách bảo vệ và giải cứu bạn trong Học trò lớp 9. Khi viết về đề tài thiếu nhi, khắc họa những nhân vật, với những số phận, những biến cố, trắc trở, và cái kết của từng tác phẩm ngoài sự ảnh hưởng từ nền văn hóa, văn học dân gian phải chăng còn do những gì mà cuộc đời của bà đã từng nếm trải. Tác giả Phan Thị Thanh Nhàn từng tâm sự: “Tôi đã quan sát, ghi chép và cặm cụi ngồi viết lại những gì tôi cảm nhận, suy tư và xót thương số phận của những trẻ em không may mắn”. Năm tác phẩm dành cho thiếu nhi, con số chưa nhiều lắm nhưng từng ấy đủ để ghi dấu cho một phong cách Phan Thị Thanh Nhàn với những trang văn chân thực, trong sáng, nhân văn và mang đậm dấu ấn dân gian.
Hiện thực trong tác phẩm của Phan Thị Thanh Nhàn cũng mang đậm chất dân gian, dân tộc. Trong sáng tác của bà những phong tục, tập quán hiện lên sinh động, chân thực như nó vốn có. Trong Xóm đê ngày ấy, tác giả đặc biệt tỉ mỉ tả cảnh hầu đồng tại nhà của bà đồng Toàn: “Trên chiếc chiếu hoa trải dưới chân điện thờ, bà đồng Toàn chân đi giày vải thêu hoa, tay cầm quạt lụa, nhún nhảy hết sang phải lại sang trái ra bộ đang chèo đò”. Hay phong tục tang ma cũng được nhắc đến trong Bỏ trốn khi mẹ và bà cái Thi mất. “Mùi hương nến ảm đạm. Trong nhà có bàn thờ, hình mẹ nó treo ở trên, xung quanh mờ mịt khói nhang cùng hoa quả”. Như một lẽ dĩ nhiên, những suy tư, cảm nhận của Phan Thị Thanh Nhàn trên trang viết mang dấu ấn văn hóa mà bà đã từng tiếp xúc. Nên trang viết của bà phảng phất điệu hồn văn hóa của dân tộc Việt, đặc biệt là văn hóa ở vùng Bắc Bộ.
Dấu ấn dân gian trong ngôn từ nghệ thuật
Khảo sát những trang viết của Phan Thị Thanh Nhàn dành cho thiếu nhi chúng ta sẽ thu được kết quả đáng ngạc nhiên đó là những chất liệu dân gian với nhũng câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, ca dao, dân ca, vè, câu đố… được tác giả lồng vào trong tác phẩm của mình một cách vừa vặn, phát huy ưu điểm của nó, làm tăng giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Có những câu tục ngữ, những thành ngữ được sử dụng nguyên văn: “Con gái cái bòn”, “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng”, “Đói ăn vụng túng làm càn” (Bỏ trốn); “Con gà tốt mã vì lông” “Nhường cơm sẻ áo”, “Nem công chả phượng” (Xóm đê ngày ấy); Những câu ca dao, bài vè hoặc những câu thơ cũng được lồng vào truyện như những khúc đồng dao trong Bỏ trốn, Xóm đê ngày ấy, Đứa bé mất cha. Đặc biệt, câu đố và cách chơi chữ, vận dụng ca dao cũng xuất hiện trong tác phẩm của Phan Thị Thanh Nhàn khá nhiều: “Qua cửa sổ/ Đến cửa sắt/ Phơi chiếc tã/ Mãi không khô/ Là cái gì?” (Bỏ trốn). Mặt Đường bẩn quá Đường ơi!” (Tuổi trăng rằm). Phan Thị Thanh Nhàn đã sử dụng chất liệu dân gian một cách phù hợp với hoàn cảnh, tính cách của nhân vật. Ví như bà cái Thi bảo: “Đói ăn vụng túng làm càn”. Câu nói đó phải là của một người bà giàu lòng bao dung và trải đời. Và những câu như “Con gái cái bòn”, “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng” cứ phải đặt vào miệng người chị dâu ích kỉ luôn khắc nghiệt với em chồng thì mới phát huy hết sức nặng của nó trong vai trò khắc họa tính cách nhân vật. Tương tự những câu đố, câu vè, những câu thơ mang âm hưởng đồng dao, và cách chơi chữ lại phù hợp với lứa tuổi hiếu động thích khám phá thế giới hơn. Chính vì cách sử dụng chất liệu dân gian với dung lượng vừa phải đan xen vào tình tiết cốt truyện một cách hợp lý đúng hoàn cảnh, đúng đối tượng như thế mà chất liệu dân gian đi vào tác phẩm của Phan Thị Thanh Nhàn một cách tự nhiên, phát huy giá trị của nó góp phần khắc họa tính cách tâm hồn nhân vật. Giọng văn vì thế cũng tự nhiên gần gũi với lời ăn tiếng nói thường ngày không tạo cảm giác xa lạ, khó hiểu với lứa tuổi thiếu nhi. Những bài học nhân sinh từ tác phẩm nhờ thế mà thấm dần vào tâm hồn trẻ thơ một cách tự nhiên, không gượng ép.
*
Có thể nói đưa những chất liệu dân gian vào những trang viết dành cho thiếu nhi Phan Thị Thanh Nhàn, đã góp phần đưa bạn đọc nhỏ tuổi trên hành trình trở về cội nguồn những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc bằng cách nâng niu trân trọng những giá trị truyền thống. Dấu ấn dân gian trong truyện thiếu nhi của bà tạo nên thế giới nghệ thuật mang điệu hồn dân tộc, làm nên bản sắc riêng cho mảng đề tài truyện viết cho thiếu nhi của Phan Thị Thanh Nhàn.
M.M
(SHSDB25/06-2017)
----------
(*) Trường Đại học sư phạm - Đại học Huế
MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.
NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.
VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.
HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).
HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.
ĐẶNG TIẾN (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.
ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…
LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.
NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.
NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...
MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.
NGUYỄN QUANG HÀ (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này: Biết rằng trong cõi nhớ thương Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi
MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.
TRẦN THUỲ MAI (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!
MAI VĂN HOAN (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!