TRẦN ĐẠI VINH
Sinh ra và trưởng thành trong một gia đình có truyền thống đạo đức ở vùng nông thôn Thừa Thiên - Huế, bác là một viên quan nhân chính, cha là thầy đồ, Đặng Huy Trứ đã hấp thụ một nền giáo dục nghiêm cẩn: thân dân và ái nhân.
Chân dung Đặng Huy Trứ ở Quảng Đông năm 1865 - Ảnh: wikipedia
Cuộc sống ở một làng quê ven sông Bồ, chuyên nghề nông cũng giúp cho ông hiểu sâu đời sống mộc mạc nghèo khó của dân quê. Tấm lòng hồn nhiên, trong sáng của một thiếu niên giàu nhiệt tình lại càng làm cho ông quan tâm đến cuộc sống chung quanh. Sau 5 năm học tập, năm 15 tuổi, Đặng Huy Trứ đã viết những bài thơ đầu đời, khởi đầu cho một xu hướng hiện thực trong thơ văn ông.
Những bài: "Thấy ông lão bán than", "Lên núi làm đùa thành thơ" vừa có cái nhìn sắc sảo, vừa có tấm lòng rộng mở trước thiên nhiên và cuộc đời.
Tóc trắng dầy trong khăn,
Vàng đen đè trĩu lưng,
Chỉ vì sinh kế quẫn,
Nhọc nhằn quên tháng năm.
(Khương Hữu Dụng dịch thơ)
Sắc màu của mưa xuân cũng được mô tả tường tận với chi tiết cụ thể:
Màu xanh nhỏ giọt trong mưa giữa từng không.
Sắc biếc tô lên tấm màn vây bốn phía
(Lên núi đùa làm thành thơ)
Ba năm sau, vừa 18 tuổi, càng chuẩn bị thi hương, cậu bé thần đồng lại càng ham thích đề vịnh. Và không phải là những đề tài quen thuộc trong khoa cử, mà lại là những đề tài tạp vịnh chung quanh cuộc sống làng quê.
Bài thơ "ánh sáng ban mai trên đồng" ghi nhận cảnh sống tất bật của nông dân từ tinh sương của ngày mùa, với những chi tiết chân thực:
Giờ dần đã tính kế sinh nhai,
Ăn vội cơm đèn bữa sớm mai.
Đồng áng vào mùa bề bộn quá,
Mặt trời chưa mọc kéo ra rồi.
Thợ cày thoáng nhận nhau qua bóng,
Cơm trắng còn vương dính ở môi...
(Khương Hữu Dụng dịch thơ)
Và cả một loạt đề tài, Trời tạnh mò hến, múc nước tưới rau, Ông già bện tre, Thợ cày vực nghé, Hàn nho bán chữ, Thả lợn vào chuồng, Hàng rong chạy chợ, Bà vú nuôi trẻ, Mùa lụt đánh cá v.v... đã tiêu biểu cho một bức tranh nông thôn khá toàn diện.
Điều đó chứng tỏ Đặng Huy Trứ là một nhà thơ của làng quê miền Trung, trong chặng sáng tác đầu tiên của đời thơ ông.
Đây là hình ảnh guồng xe nước của những làng bán sơn địa miền Trung:
Gỗ tròn làm trục, ống tre dong,
Chống hạn guồng này vượt hóa công.
Đấy xuống đây lên rồng nhả nước,
Trước đun sau đẩy hổ gây dông
Chung tay cả xóm người ra sức
Tuôn nước đầy mương, hạn chớ hòng.
Lúa má từ nay xanh trở lại,
Ôm vò, náo nức tiếng gieo mừng.
(Khương Hữu Dụng dịch thơ)
Còn có vô vàn cảnh sinh hoạt phồn tạp, eo sèo của làng quê: Cảnh mở cửa rừng vào đầu xuân của quê hương Hiền Sĩ, cảnh gánh đám tang, cảnh giục mỏ cứu hỏa, và cả cảnh gọi hồn của mụ phù thủy.
Thổ sản của vùng đất Thừa Thiên được sống mãi trong thơ Đặng Huy Trứ: Gạo de An Cựu, An Xuân nuôi vịt, Giọng hò trên sông, cũng như tiếng chuông chùa của một vùng quê tín mộ.
Không chỉ là một nhà thơ làng cảnh miền Trung, Đặng Huy Trứ còn chan chứa, dào dạt tình quê. Tình cảm đó làm cho nhà thơ quan tâm chia sớt niềm vui, nỗi buồn, sự âu lo và cả cảnh đời tất bật, nghèo khó của nhân dân. Cấu kết trong những bài thơ trên bao giờ cũng đọng lại những xúc động bùi ngùi của một tâm hồn thi nhân gắn bó với dân nghèo.
Cuộc sống vật chất của gia đình, những sự biến của gia cảnh ông vẫn không cách biệt với cảnh đời ngắc ngoải của người dân, là một trong những yếu tố: Đồng cảnh tương lân.
Chịu sao nổi cảnh ốm nghèo quanh,
Con chết non, tin bác chẳng lành.
Đứt ruột quan san đau mấy dặm,
Kinh hồn mưa gió khóc năm canh.
Nhà đang dớp qua hồi đa sự,
Chồng chả ra chi gã bạc tình.
Nước mắt đôi dòng thư nửa bức,
Khuê phòng ai đó biết cho mình.
(Gửi vợ - Khương Hữu Dụng dịch thơ)
Tình quê đó cũng là tình hoài vọng về sông Hương núi Ngự, trong những bước xa cách. Bài thơ "Thấy trăng nhớ quê" đã gởi hồn thi nhân từ sông Cẩm Lệ, Quảng Nam về với dòng Hương:
Yêu mấy đêm nay nguyệt đẫy đà,
Quê người thưởng nguyệt nhớ quê ta.
Cẩm giang mời khách soi vầng ngọc,
Hương Thủy vì ai rọi bóng nga?...
(Khương Hữu Dụng dịch thơ)
Cũng như trong bước đường công vụ sau này, ông còn gắn bó với bao chốn quê hương: Quảng Nam, Thanh Hóa, Nam Định, Hưng Yên, Hải Phòng và cả vùng biên giới Việt Bắc.
Và cũng vì thế mà Đặng Huy Trứ, từ một nhà văn nhà thơ của làng cảnh miền Trung đã trở thành một nhà văn nhà thơ của làng cảnh Việt Nam giữa thế kỷ XIX, một trong những yếu tố khẳng định Đặng Huy Trứ, nhà văn hiện thực.
Xuất phát từ tình yêu quê hương, khi trưởng thành bước vào đời công bộc, Đặng Huy Trứ đã nảy nở một tình yêu nước sâu nặng. Tình cảm đó càng thắm thiết khi đất nước đang lâm vào cảnh dầu sôi lửa bỏng.
Nhân chuyến công cán đi khám thuyền năm 1856, qua Đà Nẵng, chỉ 2 tháng sau ngày quân Pháp bắn phá cửa Hàn, Đặng Huy Trứ đã xót xa tình cảnh quân dân:
Cuối tiết tàn thu cơn lũ lụt,
Muôn nhà thiếu bữa cảnh thê lương
Diệt thù, sương gió thương quân sĩ.
Lo nước, đêm ngày bận đế vương.
Ăn lộc ví cùng lo việc nước,
Tính sao: hòa, chiến, giữ hay nhường?
(Đi quân thứ Đà Nẵng, ghi lại. Trần Lê Văn dịch thơ).
Tấm lòng thương dân đói khổ và trách nhiệm của kẻ làm quan theo truyền thống nhân chính đã đặt cho Đặng Huy Trứ nhiều suy ngẫm. Ông không hề ảo tưởng xa vời, mà đã trực tiếp đối diện với nhu cầu cấp thiết nhất của dân nghèo: cái ăn.
Ăn bám, xưa coi nhục,
Đủ ăn, dân mới nhàn.
Dân miếng ăn chẳng có,
Ta ngồi ăn sao đang!
(Miếng ăn gian nan - Vũ Đình Liên dịch thơ)
Đối lập bữa cơm rau của người dân với bữa cơm thịt cá của vua quan, Đặng Huy Trứ đã ray rứt, ông cũng nêu lên một mặt đối lập, giữa cảnh ruộng đồng xơ xác và công trạng thúc thuế của quan viên. Bưng chén cơm, ông đã từng trăn trở về một đối lập trớ trêu:
Chỉ cày sách, mặc gió sương,
Chỉ cấy chữ, chẳng lo lường nắng mưa
Máu mỡ dân, dư thừa bổng lộc,
Của cải dân, đầy ắp bụng này!
Thấy chăng chồng cấy vợ cày,
"Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn vàn"
(Trước bát cơm - theo Trần Lê Văn)
Những ngày làm một chức thuộc quan ở Thanh Hóa, trải qua các phủ huyện: Hà Trung, Quảng Hóa, Quảng Xương, ông đã bao phen lao tâm khổ trí với việc an sinh cho quần chúng, từ việc lập kho nghĩa thương, lặn lội thăm đồng, lo toan đê điều lũ lụt, nạn giết thịt trâu bò đến việc phòng thủ duyên hải...
Từng mảng công việc cụ thể của một ông quan phủ huyện cần mẫn hết lòng vì dân được tái hiện cụ thể trong thơ ông. Đây là cảnh "Thử súng đại bác ở cửa Triều":
Biển thẳm sông dài cuồn cuộn trôi,
Trời bày thế hiểm tự muôn đời.
Kết vòm bè nổi hàng bia ngắm.
Vút ngọn đài cao sóng nước soi.
Pháo nổ sấm ran ngàn dặm gió,
Đạn bay khói tỏa vạn tầm khơi.
Chỉ chờ thiêu xác quân Tây hết.
Từ đó Kình nghê sẽ bặt hơi.
(Khương Hữu Dụng dịch thơ)
Ngay cả trong bài văn tế "Cầu mưa" dâng lên thần linh, chỉ trong một đoạn mở đầu, Đặng Huy Trứ đã tái hiện cảnh sống đầy lo toan của người dân với bao trách nhiệm: làm cha, làm con, làm tôi, làm dân, bộc lộ tường tận cảnh đời eo sèo của nông dân Việt Nam trong một giai đoạn nửa hòa bình, nửa chiến tranh:
"Thứ mà dân nhờ để sống là thóc, vật nhờ để tốt tươi là mưa. Mưa không xuống, lúa không lên thì ức triệu sinh linh lấy gì nuôi vợ con, lấy gì phụng dưỡng cha mẹ, lấy gì làm xôi oản, lấy gì cất rượu cúng, lấy gì nuôi người sống, lấy gì đưa người chết, lấy gì mà nộp tô, lấy gì mà đóng thuế? Binh dịch thúc phía trước, đê điều ép đằng sau mà tiền xanh không có nửa đồng, gạo đỏ không một hạt. Kẻ ác tụ tập nơi rú rậm làm trộm cướp, người lành bỏ mồ mả cha ông, xa lìa thân thích. Dân này mắc tội gì, sao khổ đến thế!" (trích bản dịch)
Cho đến cảnh nghèo xác của mình, là một viên tri huyện bị phạt cắt một năm lương phải thiếu đói cũng được bộc lộ cụ thể. Nhà thơ đã xót xa cho chính mình, lại càng xót xa cho nhân dân (bài thơ: "Vay trước ít gạo").
Vượt lên trên nghịch cảnh, tấm lòng ông vẫn trong sáng như băng trong hồ ngọc. Người cầu cạnh đến nhà riêng, đều bị xua đuổi (bài tịch tứ yết). Bạn thân tình đến lỵ sở, cũng chỉ gắng thết bữa cơm thanh đạm:
Giá trong hồ ngọc, quan nghèo xác,
Vàng sạch đầu giường bạn đến chơi.
Cơm chỉ rau dưa, canh chủ chốt,
Nhắm bằng tôm cá, rượu khuyên mời...
(Sảnh ngụ đối khách - Khương Hữu Dụng dịch)
Với tinh thần trách nhiệm trước dân, Đặng Huy Trứ đã lật rõ bộ mặt giả dối của một số người đội lốt tu hành, bưng thúng cầm gậy đi phổ khuyến thập phương. Bài thơ cổ phong trường thiên 86 vế: "Giữa đường gặp kẻ khuyến giáo" đã vạch trần chân tướng của những kẻ cơ hội này, từ ngôn ngữ, hành vi đến đạo lý. Đó là một bức biếm hoạ đậm đà tính hiện thực về một cảnh khuyến giáo nhan nhản đương thời. Đó cũng là một tuyên ngôn bảo vệ đường lối tu hành chân chính của đạo giác ngộ.
Từ năm 1861, Đặng Huy Trứ trở về kinh làm quan ngự sử. Ở giữa kinh đô, ông đã không còn trực diện nhìn thấy cảnh sống của người dân nơi thôn cùng xóm vắng, mà chỉ ghi nhận được qua văn thư gửi về triều đình chồng chất. Lúc này, với ý thức về gánh nặng của quan ngự sử, ngòi bút của ông phải càng thận trọng.
Bài thơ: "Tặng anh Thiếu văn, nhân được biếu bút lan trúc" khẳng định sự lựa chọn xu hướng hiện thực và nhân đạo của nhà văn:
Văn chương việc trọng dám khoe đâu,
Ngọn bút anh cho hiểu ý sâu
Mưa tưới dòng Tương, rau nước Sở,
Không dưng trên giấy ý thu sầu.
Qua đó, ông quan niệm nội dung văn chương cần thể hiện là cảnh đời cơ cực của người dân đen, nỗi đau lòng vì chinh phụ trong chiến tranh, qua biểu tượng "rau kẻ nghèo trên đồng ruộng nước Sở, và giọt mưa rơi trên sông Tương".
Trong tình thế bức bách của đất nước, ông cũng tỏ bày sự chán chường những đề tài vịnh cảnh suông, mà chỉ ước ao có tài đuổi giặc, với một mối hùng tâm khẳng khái:
Chiếu vàng, sắc tía từng trao đổi,
Trăng nhạt, sao thưa ngán phẩm đề.
Những thẹn không tài câu đuổi giặc
Hùng tâm khẳng khái tiếng gà khuya.
(Trực ở nội các, đòi thơ bạn. Bùi Hạnh Cận dịch)
Cuối xuân năm giáp tý 1864, Quảng Nam bị nạn đói hoành hành, sĩ phu trong tỉnh, đã cử người về kinh đưa đơn đến tham tri bộ lại Phạm Phú Thứ, khẩn cầu cử Đặng Huy Trứ hay Nguyễn Văn Tường vào làm quan Bố chính để cứu dân. Triều đình tức tốc cử Đặng Huy Trứ, giữa trưa nhận công văn, xế chiều lên đường ngay. Mới tới lỵ sở, nắm qua tình hình, ông đã xin thay tri phủ Điện Bàn, tri huyện Quế Sơn, và dốc sức chăm lo cứu trợ dân đói.
Những bài thơ " "Cho cháo" dân đói chạy đông chạy tây kiếm ăn..." đã mô tả cảnh khốn khổ của dân trước nạn mùa màng thất bát. Đặc biệt là bài văn "Cầu mưa" đã trình hiện cảnh đói khổ một cách sâu sát.
Tai ương dồn dập ập xuống đầu dân đen làm cho ông lo âu trăn trở. 10 bài thơ tự răn càng bộc lộ tấm lòng kiên định vì dân với một quan niệm chính trị phóng khoáng.
Muốn dân được lợi cần quyền biến
Tội vạ riêng mình cũng dám mang.
(bài thứ 7, Lê Xuân Hòa dịch)
Ông đã lo toan những công việc thiết thực, xin thành lập ty chuyển vận để lúa gạo, hàng hóa được lưu thông, lập nghĩa trang để thu lượm, chôn cất hài cốt người chết đường...
Công việc chưa bao nhiêu, năm 1865 ông lại được chiếu cử đi Hương Cảng thăm dò, xem xét tình hình quốc ngoại. Với một tinh thần phản ánh hiện thực, mấy chục bài thơ sáng tác trong chuyến đi này như là một nhật ký ghi chép điều mắt thấy tai nghe trong một năm ở đất khách.
Trở về 2 năm 1866, 1867 ông phụ trách ty Bình chuẩn ở Hà Nội. Ngoài thơ văn thù đáp các danh sĩ Thăng Long, văn thơ ông hai năm này còn trực tiếp mô tả công việc cụ thể của ty Bình chuẩn, lo thu mua thóc lúa, hàng hoá, trữ vào, bán ra.
Năm 1867, ông được cử đi Quảng Đông công cán. Ngày sắp xuống thuyền cũng là ngày Bắc Bộ bị bão lớn, ông đã dò hỏi tình hình, quan tâm sâu sát, chỉ là vài nét phác thảo trong thơ, nhưng cảnh tiêu điều của dân đã hiển lộ:
Đồng ruộng lúa ngập chìm/ Núi rừng cây gục ngã/ Nước lụt thóc mọc mầm/ Sóng xô nhà đổ ngã/ người làm mồi cho trai/ Của vào đầy bụng cá/ Bờ ruộng dựng cột buồm/ Bến sông xương trắng xoá...! (Trần Lê Văn dịch)
Đến Quảng Đông, nhà thơ lại ngọa bệnh. Những ngày tháng ốm đau trên giường bệnh cô quạnh ở nước người, ông đã trăn trở nhiều điều, nhất là về phương lược tự cường tự trị của đất nước. Áng văn xuôi ghi câu chuyện đối đáp giữa mình và một người khách hiệu Dã trì chủ nhân, nhân vật ấy cũng là sự phân thân của tác giả, đã so sánh đối chiếu cảnh ngộ của mình ở quê nhà và ở đất khách, để giải bày tâm sự và ước vọng của mình, với một bút pháp hiện thực cao.
Cũng trong những ngày tháng nằm bệnh ở quê người, Đặng Huy Trứ đã đọc miệng cho người bạn viết nên bút ký "Đặng Dịch Trai ngôn hành lục", luôn trong 150 ngày, gồm tất cả 53 thiên, với một tinh thần tôn trọng sự thật cuộc đời, hành vi, lời dạy của phụ thân.
Tiếc thay thơ văn những năm tháng chiến trận của ông chưa tìm thấy, làm thiếu mất một mảng hiện thực của cuộc chiến tiểu phỉ gian truân của ông và quan quân trên một vùng mấy tỉnh biên giới Việt - Trung.
Thơ văn ông không phải là thứ phù hoa trang sức cho một đời trí thức quan liêu, mà chính là tim óc, là tâm huyết, là khí lực, là cốt tủy của một người sống chết cho nhân dân, như nhân dân, toàn tâm toàn ý, trọn vẹn cuộc đời lo toan cho dân.
Đó cũng là điều làm sáng tỏ nhân cách vẹn toàn của một Đặng Huy Trứ trên vòm trời Việt Nam thế kỷ XIX.
T.Đ.V
(TCSH57/09&10-1993)
----------------------------
Chú thích: Các đoạn thơ văn trích ở trong bài viết, đều lấy ở "Con người và tác phẩm Đặng Huy Trứ", Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh 1990.
THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.
NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.
HOÀNG VŨ THUẬT (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)
TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.
NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.
HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.
HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)
NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...
TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)
HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)
NGUYỄN VĂN HOA(Nhà xuất bản Lao Động phát hành 2004)
PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).
NGUYỄN THANH MỪNG Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.
NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.
NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.
VÕ THỊ XUÂN HÀVào rằm tháng Giêng năm 2003 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức long trọng. Mở đầu bằng lễ kéo Lá cờ Thơ, rồi ngâm đọc bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh. Sau đó là các chương trình giao lưu thơ với công chúng, đọc những bài thơ hay nhất của đất nước, ngâm thơ, bình thơ v.v…