Cuốn sách khẳng định nền văn minh Việt

14:52 15/12/2016

Tháng 4.1938, Toàn quyền Đông Dương đã “đặt hàng” học giả Nguyễn Văn Huyên thực hiện công trình Văn minh Việt Nam để dùng làm sách giáo khoa cho bộ môn văn hóa VN trong các trường trung học. Một năm sau, công trình hoàn thành nhưng lại không được người Pháp cho phép xuất bản.

Cuốn sách do NXB Hội Nhà văn và Công ty Nhã Nam tái bản. Ảnh: NXB

“Tuyên ngôn về tự do tư tưởng và học thuật”

Chỉ một năm sau khi nhận được “đơn đặt hàng”, Nguyễn Văn Huyên đã hoàn thành công trình Văn minh Việt Nam được viết bằng tiếng Pháp với tên La civilisation annamite. Tuy nhiên, sau đó chính quyền Pháp đã kiểm duyệt rất gắt gao và đối chất với Nguyễn Văn Huyên về nhiều nội dung trong cuốn sách.
 
Gia đình GS Nguyễn Văn Huyên hiện vẫn đang lưu giữ các tập bản thảo viết tay của ông cũng như văn bản ghi Báo cáo của Hội đồng kiểm duyệt Bắc kỳ cho thấy ông nhiều lần bị khiển trách vì nhiều lý do. Trong đó, có việc “tác giả nhiều lần nói đến sự nghèo khổ của người bản xứ, dưới hình thức gián tiếp, nhưng thường xuyên đến độ đề tài đó trở thành một điệp khúc”. “Đối với Nguyễn Văn Huyên, rõ ràng đói nghèo không phải một điều đương nhiên, mà là kết quả của một chế độ và chính sách xã hội. Có lẽ chính vì tác giả không chấp nhận kiểm duyệt mà tác phẩm này phải chờ 6 năm sau khi hoàn thành (năm 1944) mới được xuất bản”, PGS-TS Nguyễn Phương Ngọc (Viện Nghiên cứu châu Á, Đại học Aix - Marseille, Pháp) nhìn nhận.
 
Theo GS Nguyễn Văn Huy, cuốn sách được đặt tên Văn minh Việt Nam là cách mà GS Nguyễn Văn Huyên - cha của ông - đối sánh nền văn minh của VN với những nền văn minh của các quốc gia khác. Sâu xa hơn, Nguyễn Văn Huyên cho thấy VN có nền văn minh riêng không phụ thuộc vào nền văn minh nào, đi ngược lại những điều mà các nước thực dân luôn ra rả: họ là những người khai sáng văn minh cho nước thuộc địa. “Trong bối cảnh những năm 1930, khi chúng ta đang sống trong đất nước nô lệ, nhưng Nguyễn Văn Huyên đã dám khẳng định nền văn minh VN, tạo nên niềm tự hào dân tộc cho thế hệ học sinh thời đấy”, GS Nguyễn Văn Huy nói.
 
Sáu năm sau khi hoàn thành, bản thảo công trình Văn minh Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên mới được xuất bản, nhiều trang bản thảo đã bị cắt bỏ. Dù vậy, trong suốt khoảng thời gian đó, ông đã cho thấy sự kháng cự bền bỉ với chế độ kiểm duyệt cũng như bảo vệ quan điểm của mình trước chính quyền thuộc địa. PGS-TS Nguyễn Phương Ngọc coi công trình này như “một tuyên ngôn về tự do tư tưởng và học thuật của người Việt”.
 
Cuốn sách khẳng định nền văn minh Việt - ảnh 1
Cuốn sách khẳng định nền văn minh Việt - ảnh 2
Hình ảnh VN những năm 1920 - 1930 Ảnh: Raymond Chagneau (Pháp)

“Cửa sổ để thế giới hiểu về VN”

Nguyễn Văn Huyên là một trong hai người Việt đầu tiên (cùng với Đào Duy Anh) nghiên cứu lịch sử, văn hóa, xã hội VN theo phương pháp khoa học phương Tây. Sự đóng góp của Nguyễn Văn Huyên và Đào Duy Anh có ý nghĩa vô cùng quan trọng với công tác nghiên cứu lịch sử, văn hóa, xã hội tại VN. Bởi trước đó, VN chỉ có những cuốn biên niên sử mà trong đó tác giả ghi chép lại các sự kiện, hiện tượng, những gì đã diễn ra trong quá khứ. Bước vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, hầu hết những tư liệu, nghiên cứu về VN lại là của các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và nghiệp dư nước ngoài (nhà truyền giáo, nhà buôn, binh sĩ...). Giữa bối cảnh ấy, Nguyễn Văn Huyên đã tiếp thu nền học thuật của Pháp - chính quyền thuộc địa đương thời, để thực hiện những công trình nghiên cứu khoa học giúp thế giới hiểu về nước Việt qua người Việt. Chính vì vậy, nhà dân tộc học Georges Condominsas đã nhận xét cuốn Văn minh Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên là “cánh cửa sổ để thế giới hiểu về VN”.
 
Văn minh Việt Nam là công trình nghiên cứu về VN đương thời, trong giai đoạn những năm 1930. Những tư liệu được đưa ra trong cuốn sách có thể được coi là điểm mốc để thấy được sự thay đổi của văn hóa, xã hội, đời sống của con người VN, hay tầm nhìn của Nguyễn Văn Huyên. Chẳng hạn, vào những năm 1930, Nguyễn Văn Huyên đã báo trước làn sóng đô thị hóa đang tiến vào các vùng nông thôn. Đến giờ, sau 70 năm, chúng ta đã thấy rõ làn sóng này đi qua như thế nào.
 
PGS-TS Đinh Hồng Hải (Khoa Nhân học, ĐH Khoa học xã hội và nhân văn - ĐH Quốc gia Hà Nội) cho rằng việc cuốn sách này chỉ được dịch sang tiếng Việt sau 50 năm sau khi xuất bản là sự đáng tiếc, cũng giống như nhiều công trình, tài liệu nghiên cứu của các nhà trí thức người Việt được viết bằng ngôn ngữ khác. Chẳng hạn như trong sách, Nguyễn Văn Huyên đã ủng hộ quan điểm về nguồn gốc người Việt: “Những người chắc chắn là sản phẩm của nhiều sự tạp giao, và công nhận rằng tổ tiên họ cư trú tại miền Trung đồng bằng Bắc kỳ từ một thời kỳ rất xa. Có quan hệ thân thuộc với ngữ tộc Thái, là bà con rất gần với người Mường ở Hòa Bình và Thanh Hóa, người Việt hiện nay chẳng qua chỉ là người Mường đã Hán hóa và chắc là lai giống nhiều”. Quan điểm này hoàn toàn trái ngược với quan điểm của Đào Duy Anh cho rằng người Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc. Tuy nhiên, do cuốn sách của Đào Duy Anh được viết bằng tiếng Việt nên nhiều người trong suốt thời gian dài không biết đến một quan điểm khác mà Nguyễn Văn Huyên đưa ra.
“Hiếm có cách nhìn lịch sử hai chiều trong cùng một thời điểm như thế. Nếu chúng ta biết đến sớm, có lẽ đã không xảy ra nhiều “xung đột” trong vấn đề tranh cãi về nguồn gốc người Việt như vừa qua”, PGS-TS Đinh Hồng Hải bày tỏ.
 
Cuốn sách khẳng định nền văn minh Việt - ảnh 3
       
Nguyễn Văn Huyên (1905 - 1975, ảnh) là người VN đầu tiên bảo vệ luận văn tiến sĩ tại Đại học Sorbonne, Paris (Pháp) vào năm 1934. Buổi bảo vệ được coi là một sự kiện lịch sử của ĐH Pháp, cũng như lịch sử các xứ thuộc địa Pháp. Bởi cho đến thời điểm đó, có rất ít người dân thuộc địa có bằng cấp cao như vậy. Trước năm 1945, Nguyễn Văn Huyên là người châu Á duy nhất ở Viện Viễn Đông bác cổ Pháp được bổ nhiệm làm thành viên khoa học, ngang hàng với các học giả người Pháp.

Nguồn: Ngọc An -TN

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.

  • NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)

  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)

  • LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)

  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)

  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.