Joseph Haydn là một nhà soạn nhạc đáng kinh ngạc và hài hước là một phần trong nghệ thuật tuyệt vời của ông.
Chân dung Joseph Haydn do Thomas Hardy vẽ năm 1792
Gần đây tôi có được niềm vui và đặc ân chỉ huy Giao hưởng số 80 giọng Rê thứ của Haydn tại Salzburg. Đó là một tác phẩm đáng kinh ngạc, đầy những bất ngờ và hầu như hoàn toàn chưa được biết đến. Chương đầu tiên mang tính chất “bão táp và xung kích”1 điển hình cho đến khi phần phát triển đột ngột bị cắt ngang bằng một chủ đề kiểu vũ điệu duyên dáng và thanh lịch. Trong phần phát triển, Haydn đưa vào các quãng lặng dài một cách bất thường và với những cách chuyển giọng táo bạo, tạo nên cuộc du ngoạn bất ngờ vào những sắc điệu lạ kỳ. Chương nhạc cuối - Presto - là một thành công của sự nhập nhằng về nhịp điệu: người nghe phải đoán được đâu là phách mạnh và đâu là phách nhẹ; chỉ sau 32 ô nhịp thì nhịp điệu mới trở nên đều đặn. Thật là khéo léo và cực kì vui nhộn. Nhưng ở Salzburg không ai cười cả. Thậm chí không ai mỉm cười. Có vẻ như việc làm khán giả khóc thì dễ hơn nhiều việc làm khán giả cười. Có nhiều người yêu nhạc thậm chí không bao giờ chấp nhận rằng sự hài hước cũng có vị trí trong cái mà chúng ta gọi là âm nhạc cổ điển. Có những người không khó khăn gì để nhận ra nỗi buồn, bi kịch, niềm tiếc thương, sự uy nghi và hùng vĩ - bởi vì đó là các thuộc tính nghiêm túc và họ muốn âm nhạc yêu quý của họ là “nghiêm túc”. Đối với họ, các trò đùa được tạo ra bằng chất liệu rẻ tiền và dung tục không thể được khoan thứ trên bàn thờ của nghệ thuật đỉnh cao.
Vài năm trước tại một hiệu sách Tokyo, tôi đã bắt gặp một cuốn sách trong đó tác giả giải thích cách hiểu các truyện cười. Mỗi truyện cười hay giai thoại được tiếp nối bằng vài trang chỉ dẫn cho độc giả biết tại sao nó lại buồn cười.
Haydn đã viết cho những công chúng hiểu ngôn ngữ âm nhạc của ông một cách hoàn hảo. Ở Eisenstadt và Esterháza, ở Vienna và Paris, nhưng đầu tiên và trước hết là ở London, nơi ông được bao quanh bởi một nhóm các nghệ sĩ chuyên nghiệp và nghiệp dư không đông đúc nhưng am hiểu, những người đón nhận mỗi tác phẩm mới với sự quan tâm và đánh giá cao. Khán giả của ông quen thuộc với các tác phẩm trước đó của ông, họ biết phong cách riêng của ông và nhận ra ngay lập tức các đặc điểm khác thường của một bản giao hưởng mới. Những mong đợi và bất ngờ trong âm nhạc không cần phải giải thích, và sự hài hước của Haydn có cơ hội nở rộ. Cộng đồng người nghe nhạc hôm nay đương nhiên rất khác và chúng ta rất đỗi thường xuyên cảm thấy cần phải có một “cuốn sổ tay kiểu Nhật” để khai sáng cho thành viên nào đó trong đám khán giả.
Các tác phẩm viết cho đàn phím của Haydn đầy những điều bất ngờ thích thú. Hãy nghe Capriccio (Khúc tùy hứng) giọng Sol trưởng ông viết ở thời kỳ đầu và lấy bài dân ca “Acht Sauschneider Müssen Sein” (tạm dịch “Phải cần tám thợ hoạn lợn”) làm chủ đề. Lời của bài dân ca này rất hài hước: nó miêu tả một cuộc hoạn lợn, một cuộc phẫu thuật cần ít nhất tám tay thợ. Haydn đã dịch nó sang các thuật ngữ âm nhạc bằng cách đi lung tung từ điệu thức này sang điệu thức khác, giới thiệu chủ đề chính ở dạng trọn vẹn hoặc phân tán bằng các quãng âm khác nhau của nhạc cụ. Chẳng có gì theo thông lệ trong tác phẩm này, chẳng có gì đáp ứng những mong đợi của thính giả.
Bản Fantasia (Capriccio) giọng Đô trưởng được viết gần một phần tư thế kỉ sau đó, vào năm 1789. So với tác phẩm trước thì đây là một kiệt tác thuần thục, một sự pha trộn kỳ lạ của hình thức sonata và rondo. Có hai lần - chỗ một nốt lặng trên một quãng tám ở bè trầm, âm nhạc ngừng lại. Tại đây, nhà soạn nhạc chỉ dẫn cho nhạc công phải “Tenuto intanto, finché non si sente più il suono” - giữ cho đến khi không nghe thấy âm thanh nữa. Thậm chí có một đoạn nhạc cụ ngừng lại lâu kinh khủng - khán giả bắt đầu lo lắng - có phải nghệ sĩ dương cầm tội nghiệp bị rối trí rồi không? Nhưng bè trầm đột ngột lướt một cách lặng lẽ lên nửa cung, mở ra các quãng hòa âm mới. Điều đó vừa vui nhộn vừa đáng ngạc nhiên.
![]() Tác giả bài viết - András Schiff (1953) - là nghệ sĩ piano và nhạc trưởng người Hungary. |
Trong Sonata cho piano giọng Mi giáng trưởng cuối cùng của Haydn, chương mở đầu uy nghiêm được tiếp nối bằng một chương Adagio quý phái giọng Mi trưởng. Chỉ riêng sự thay đổi điệu thức này đã gây sửng sốt. Theo thông lệ thời ấy, lẽ ra chương hai phải được viết ở giọng Si giáng trưởng hoặc Đô thứ. Sự cận kề của hai chương nhạc cùng điệu thức là rất táo bạo. Không nhà soạn nhạc nào trước Haydn có can đảm thử nghiệm như vậy, mặc dù Beethoven đã có lần làm theo hình mẫu của Haydn (bản Tứ tấu đàn dây Op.131 thời kỳ cuối có chương một ở giọng Đô thăng thứ và chương hai ở giọng Rê trưởng) và bản ngũ tấu đàn dây giọng Đô trưởng của Schubert chuyển từ giọng Mi trưởng trong chương hai tới một đoạn nhạc giọng Fa thứ ở giữa. Chương Adagio của Haydn kết thúc một cách long trọng ở giọng Mi trưởng. Khi chương cuối của bản Sonata cho piano bắt đầu, riêng tay phải chơi năm nốt Sol móc đơn lặp đi lặp lại và chúng ta nghĩ chúng ta đang nghe điệu thức Mi thứ. Liền đó, bè trầm bắt vào âm chủ, Mi giáng. Có cảm tưởng như Haydn đang bảo chúng ta: “Lại nhầm nữa nhé!”
Các bản tam tấu cho piano bị sao nhãng một cách bất công của Haydn cũng là các tác phẩm đáng kinh ngạc. Tam tấu cho piano giọng Mi giáng thứ - còn ai khác có thể viết một tác phẩm ở điệu thức này vào những năm 1790? - mở đầu bằng một chương Andante Cantabile biểu cảm viết ở hình thức biến tấu kép. Chương Allegro tiếp theo (tác phẩm chỉ có hai chương) mang tiêu đề phụ “Giấc mơ của Jacob” (ám chỉ giấc mơ của Jacob về chiếc thang vươn đến tận thiên đường). Theo một giai thoại đương thời, nghệ sĩ violin của nhóm tam tấu công diễn ra mắt tác phẩm có tính kiêu căng và tự phụ một cách lố bịch. Trang nhạc đầu tiên khá đơn giản và có thể dễ dàng thị tấu. Tuy nhiên, sau khi lật trang thì bè violin có các kỹ thuật khó đến dựng tóc gáy - một bài học về sự khiêm nhường cho nghệ sĩ violin.
104 bản giao hưởng của Haydn được ngợi ca rộng rãi mặc dù chỉ một số ít trong đó được biểu diễn thường xuyên và khi được biểu diễn thì chúng luôn bị xếp ở đầu chương trình. Đây là một điều đáng tiếc. Các khán giả ở phần đầu các buổi hòa nhạc không thực sự tập trung. Họ cần được khởi động cho nóng người, y như các nhạc công, và thế là các ý tưởng tuyệt vời của Haydn không được đánh giá đúng hoàn toàn. Tại sao chúng ta không nghe các bản giao hưởng này vào cuối chương trình? Hay thật ra, có gì không ổn với một buổi hòa nhạc chỉ gồm toàn các giao hưởng của Haydn?
Hãy nghe Giao hưởng số 60, đôi khi còn được gọi là “Il Distratto” (tạm dịch: “Phân tâm”), một kiệt tác sân khấu2 gồm sáu chương nhạc, nơi mà ở giữa chương cuối Finale âm nhạc chỉ đơn giản là dừng lại và các nghệ sĩ violin thấy cần lên dây lại cho nhạc cụ của họ. Hoặc Giao hưởng số 93 giọng Rê trưởng, bản đầu tiên trong chuỗi giao hưởng có biệt danh “London”. Chương thứ hai tiếp diễn một cách dịu dàng lịch lãm cho đến khi bị các kèn bassoon cắt ngang một cách cục súc - chúng giống như câu thành ngữ “bò đực trong cửa hàng đồ sứ Trung Quốc” vậy3. Thậm chí ngày nay, các hiệu ứng âm thanh như thế vẫn tạo cảm giác hài hước và nghịch ngợm.
Haydn là một nhà soạn nhạc đáng kinh ngạc và hài hước chỉ là một phần trong nghệ thuật tuyệt vời của ông. Toàn bộ các chương nhạc, thậm chí toàn bộ các tác phẩm được xây dựng từ một tế bào nhỏ xíu - một kỹ thuật sáng tác mà Beethoven trẻ tuổi đã học được từ thầy mình. Cảm giác về sự cân đối của ông luôn luôn chính xác. Trong các vở opera và oratorio, ông áp đảo chúng ta bằng sức mạnh và quyền năng kịch tính. Các tác phẩm tôn giáo, như các bản mass và tác phẩm viết cho dàn nhạc Die sieben letzten Worte unseres Erlösers am Kreuze (Bảy lời nói cuối cùng của Chúa trên thánh giá) tạo cảm giác sâu lắng và hết sức xúc động. Trong các tứ tấu đàn dây, giao hưởng và sonata viết cho piano của mình, ông đã khám phá ra những chân trời mới. Thế giới cần phải đánh giá ông cao hơn nữa: trong số tất cả những nhà soạn nhạc thực sự vĩ đại, ông vẫn còn bị xem nhẹ nhất.
Nguồn: Ngọc Anh - Tia sáng
(Dịch từ http://www.theguardian.com/music/2009/may/29/ joseph-haydn-comedy-classical-music)
-------------
1 Nguyên văn tiếng Đức: “Sturm und Drang”, trào lưu nghệ thuật nổi bật của Đức ở thế kỷ XVIII và là một trong những trào lưu nghệ thuật quan trọng nhất của thời kỳ Khai sáng.
2 Vốn là âm nhạc viết cho vở kịch Le Distrait của Jean-François Regnard được Karl Wahr phục dựng tại Đức năm 1774 tại Đức dưới tên Der Zerstreute.
3 Thành ngữ “like a bull in a China shop” chỉ người và hành động bất cẩn.
Các nhà nghiên cứu vừa phát hiện ra rằng Luwig van Beethoven đã soạn nhạc theo nhịp đập trái tim mình. Theo họ, những nhịp điệu ấn tượng trong một số tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà soạn nhạc có thể xuất phát từ chứng loạn nhịp tim của ông.
Có lần tôi hỏi một nhóm các nhà soạn nhạc trẻ mà tôi đang giảng dạy xem liệu có thứ âm nhạc hiện đại nào khiến họ không ưa chăng. Hơn một nửa số người đã nhắc đến Pierre Boulez.
Nhạc: NGUYỄN VIỆT HOÀNG
Thơ: NGUYỄN THÀNH PHONG
George Harrison của ban nhạc The Beatles gọi ông là “bố già” của dòng World Music. Yehudi Menuhin, Philip Glass, André Previn, Zubin Mehta và David Murphy từng hợp tác ra album hoặc chỉ huy tác phẩm của ông. Nhiều nghệ sĩ độc tấu, trong đó có nghệ sĩ flute Jean-Pierre Rampal hay nghệ sĩ cello Mstislav Rostropovich, đều từng mời ông biểu diễn cùng. Ông là nghệ sĩ đàn sitar, nhà soạn nhạc cổ truyền Ấn Độ Ravi Shankar.
LÊ ĐÌNH BÍCH
Sau lần dự buổi giảng dạy về văn hóa và âm nhạc của chúng tôi cho sinh viên Đại học SIT - Hoa Kỳ theo kế hoạch thường niên hợp tác giữa Đại học Cần Thơ và Đại học SIT, nghiên cứu sinh tiến sĩ âm nhạc Alexander M. Cannon, thuộc bộ môn âm nhạc học Đại học Michigan quyết định về Cần Thơ nghiên cứu âm nhạc Tài Tử Nam Bộ - một phần trong luận án tiến sĩ của anh.
Nền Âm nhạc Việt Nam vừa phải đau đớn tiễn biệt những vị nhạc sĩ tài hoa liên tiếp chỉ trong một thời gian ngắn, từ Trần Văn Khê, Phan Huỳnh Điều, Phan Nhân cho tới An Thuyên. Trong số này, nhạc sĩ An Thuyên được coi là gương mặt tiêu biểu của dòng âm nhạc dân gian đương đại.
Đa số giao hưởng của Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791) được viết ở giọng trưởng, chỉ có hai bản giao hưởng số 25 và số 40 đều được viết ở giọng thứ (Sol thứ).
Mặc dù tên tuổi của Cristofori ít được phổ biến rộng rãi, nhưng cây đàn piano do ông tạo ra đã trở thành nhạc cụ có tầm ảnh hướng rất lớn đến nền âm nhạc và xã hội loài người.
Âm nhạc cổ điển vốn có tiếng là quý phái song cũng đầy rẫy những cuộc luận chiến và những vụ bê bối. Clemency Burton-Hill chọn ra một vài sự vụ đình đám nhất trong số đó.
Huế và chùa, hai mảnh ghép trong vô tận mảnh ghép cuộc đời họ Trịnh, chỉ duy, chúng hình như gần trái tim của người nhất, hay nói cách khác, Trịnh đã hít thở từ khi còn nằm nôi...
NGUYỄN VIỆT
Tuyển tập Rừng hát do Nxb. Văn học ấn hành, vừa ra mắt bạn đọc tháng 1/2015, là một công trình xuất bản văn học nghệ thuật công phu, chất lượng và rất đáng trân trọng về những tác phẩm và công trình nghiên cứu của nhạc sĩ, nhà văn, nhà biên kịch, nhà nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian Minh Phương.
Sau hơn một năm điều trị bệnh, dù được các y bác sĩ tận tình cứu chữa, nhưng vì tuổi cao, sức yếu, nhạc sĩ Hồ Bông đã trút hơn thở cuối cùng vào lúc 16 giờ 15 ngày 23-4, tại Bệnh viện Thống Nhất, TPHCM.
Martin Jarvis, giáo sư âm nhạc người Wales hiện đang giảng dạy tại ĐH Charles Darwin, Úc, vừa đưa ra một số bằng chứng cho rằng người vợ thứ hai của Bach, Anna Magdalena, mới chính là tác giả thực sự của một số tác phẩm lớn của ông, bao gồm cả bộ tác phẩm Cello Suites kinh điển.
“19 tháng 8”, “Giải phóng Điện Biên”, “Tiến về Hà Nội”, “Đất nước trọn niềm vui”, “Như có Bác trong ngày đại thắng”…là những khúc tráng ca đầy hào hùng và xúc động ngợi ca chiến thắng của quân và dân ta, gắn liền với những mốc son của lịch sử dân tộc.
Các dòng nhạc ít nhiều đều góp phần nuôi dưỡng lẫn nhau. Ta có thể nói các bài hát của Adele có cấu trúc giống các ca khúc nghệ thuật của Schubert và việc vay mượn giai điệu có thể đã không tồn tại nếu không có Dvorák.
Trong cảnh phong trần của lịch sử dân tộc, mỗi con người đều mang chút thân phận éo le, không cứ gì các bậc tài danh. Nhưng tài danh thì nhiều người biết đến, và trở thành tiêu biểu, như nhạc sĩ Đoàn Chuẩn (1924-2001) đã ra đi ngày 15 tháng 11, 2001 tại Hà Nội, mà những ngày se lạnh đang nhắc lại những khúc ca mùa thu tuyệt diệu mà ông là tác giả.
Nhà soạn nhạc người Anh Richard Blackford vừa cho ra đời một tác phẩm giao hưởng chưa từng có: “The Great Animal Orchestra” (Dàn nhạc Động vật Vĩ đại), lồng ghép những âm thanh của các loài vật hoang dã vào chất liệu của một dàn nhạc giao hưởng hoàn chỉnh. Không chỉ là một tác phẩm âm thanh ngoạn mục, bản giao hưởng còn đặt ra những câu hỏi đáng suy ngẫm về mối quan hệ giữa động vật, con người và âm nhạc.
VĂN THAO
Trích hồi ký Văn Cao - Đời & nghiệp
Mùa thu năm 1947, từ Lào Cai, Văn Cao trở về Vĩnh Yên. Ông cùng gia đình mở một quán cà phê tại chợ Me Lập Thạch tiếp tục làm báo Độc Lập và phụ trách một cơ sở in báo đóng tại Thản Sơn.
Tiếp theo sự ra đời của nhiều trường phái mới cùng song song tồn tại như Ấn tượng, Biểu hiện, Tân Cổ điển, Nhạc 12 âm v.v. với những cách tân để thay thế cho những quy phạm cũ của nền âm nhạc truyền thống, nửa sau thế kỷ 20 lại chứng kiến một cuộc cách mạng triệt để không kém về triết lý sáng tác, từ đó cho ra đời các tác phẩm thể hiện những tư tưởng cá nhân đầy táo bạo.
Từ anh bộ đội trở thành nhạc sĩ
Tên khai sinh của nhạc sĩ Xuân Giao (ảnh) là Trương Xuân Giao, sinh ngày 2-1-1932, tuy quê hương ở Hưng Yên, nhưng ra đời ở Tiên Lãng, TP Hải Phòng, lớn lên học Trường chuyên khoa Phan Thanh ở tỉnh Thái Bình.