Cuộc xướng họa thơ năm Ất Dậu 2005

09:36 28/01/2017

LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.

Minh họa: Nhím

Ất Dậu 2005 - Đinh Dậu 2017, thời gian xoay tròn một con giáp, tưởng như mới hôm qua, còn nghe như khánh ngân tiếng cười nói của Thầy, tiếng ca, tiếng đàn từ Paris, Sài Gòn, Hà Nội, Huế, Müenchen và những đâu nữa, khắp năm châu. Xướng họa thi ca đã trở nên một tập tục đầu xuân từ khi Thầy về nước với các bạn bè thơ nhạc, nhất là với nhóm Lắng khúc tri âm của nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương. Từ đó đêm Giao Thừa dù không có pháo nổ như thuở trước, lại rộn rã tiếng thơ của Thầy gửi đi, bay vèo trong gió xuân đến bạn bè khắp nơi và ai ai cũng vội vàng chấp bút theo Thầy. Chắc chắn bài thơ xuân Ất Dậu đã có rất nhiều xướng họa và đã được đăng trong các báo năm trước. Nhưng có một bài thì không. Dạo ấy có đứa học trò cũng tấp tểnh làm thơ họa nhưng làm xong thì giữ lại cho mình ở góc phố Munich xa xôi, không gửi.
Đinh Dậu xuân này không còn tiếng thơ của Thầy vang mọi nẻo, xin gửi chuỗi thơ và bài thơ dấu kỷ để tưởng nhớ đến vị Thầy lỗi lạc, nhân hậu của mọi thế hệ Việt Nam vừa khuất bóng, người đã trao tặng rất nhiều mùa xuân nhân ái cho đời.

Thái Kim Lan     
 

Trần Văn Khê xướng họa với Tôn Nữ Hỷ Khương , Đỗ Hồng Ngọc và Thái Kim Lan - Ảnh tư liệu của Thái Kim Lan


Đầu Năm Ất Dậu, khai bút tại Hà Thành   

TRẦN VĂN KHÊ  

Sáng nay, cảm giác mình đang ở Hà Nội, Thủ đô nước Việt Nam, nơi mà ngày xửa ngày xưa, cách nay 61 năm, chàng trai vùng lưu vực sông Cửu Long, đã đón xuân lần chót tại Hà thành, rồi phiêu bạt giang hồ, năm châu bốn biển, lại được cái thú vui nhìn lại cảnh cũ, nhớ chuyện xưa rồi nghĩ đến ngày nay, nhắc chuyện xa để thấy rõ việc gần, trong cái vui có một chút bàng hoàng, trong cái bàng hoàng lại ẩn một niềm vui.

Trong lúc tập trung để viết bài thơ khai bút, thì mấy lần điện thoại làm gián đoạn nguồn hứng. Thảo vừa xong 8 câu 5 vần, thì gia đình bạn Hoàng Chương đến đón mình đi dạo phố, và thăm vài người bạn. Được cái vui nhìn tận mắt cảnh Xuân tại Hà thành dưới tia nắng sớm, trời hôm nay ấm áp, mà không nóng, cây cỏ phơi phới tình Xuân, người người quên chuyện âu lo để đón mừng năm mới, thì cuộc du Xuân sáng nay đáng cho ta hoãn lại việc đọc và sửa mấy câu thơ chưa ổn.

Sau đây là bài thơ Khai bút đã gởi đến gia đình, môn sinh bè bạn xa gần.

Ất Dậu Nguyên đán, Khai bút đầu năm tại Hà Thành

Tết nầy, gần nước lại xa nhà,
Khai bút đầu năm, ta với ta.
Thuở trước, chàng trai đi hái lộc
Ngày nay, lão trượng dạo xem hoa.
Xứ người, nghiên cứu thời niên thiếu
Quê mẹ, an cư lúc tuổi già
Gởi bạn đôi vần từ đất Bắc
Chào Xuân, gà gáy khúc hoan ca.


                                Trần Văn Khê
           Khách sạn Bảo Sơn, Hà Thành, Ngày đầu năm Ất Dậu, Giờ Ngọ,
                               08/02/2005, 12 giờ 45  

Sau khi nghe 2 câu đầu, chỉ nhớ 2 vần mà Hỷ Khương đã có 2 câu họa, và khi được cả bài thì Hỷ Khương đã họa xong lại còn gởi bài thơ xướng ra Hàm Tân cho cháu bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Sau đây là 2 bài thơ họa vận mình nhận được đầu tiên.

Thương mến họa vận Thơ “Khai bút đầu năm” của Trần Văn Khê hiền huynh

Mừng đón hiền huynh trở lại nhà
Quê hương ta đó - đẹp lòng ta
Xuân về, nhạc vọng đàn ngân khúc
Tết đến, thơ đề, bút trổ hoa
Âu Á danh vang từ lúc trẻ
Đông Tây tiếng dậy đến khi già
Quyết tâm sau trước vì dân tộc
Đất nước vui chào rộn tiếng ca.


             Miền Nam sáng mồng một Tết Ất Dậu - 2005
                       TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG muội muội


Kính họa bài thơ Khai bút của Chú Trần Văn Khê

Đi quẩn quanh rồi trở lại nhà
Sáu mươi năm lẽ chạnh hồn ta
Dấu xưa chừng đã vùi sương tuyết
Nền cũ nay đà rợp bóng hoa
Mấy thuở tung hoành vươn chí trẻ
Một thời oanh liệt quản thân già
Xuân nay sum họp tràn Nam Bắc
Nắn phím tơ lòng trổi khúc ca


                       Hàm Tân, Mồng 2 Tết Ất Dậu
                                  ĐỖ HỒNG NGỌC  


Họa thơ Thầy Trần Văn Khê

Tết vui về nước, lại nhớ nhà
Canh gà tâm sự, bạn cùng ta
Nửa đời xuất ngoại, xuân thêm lộc
Một khối tình quê, mai nở hoa
Trí tặng năm châu, tài chẳng thiếu
Nghĩa bồi đất mẹ, nỏ tâm già
Trẻ mãi vần thơ vang Nam - Bắc
Tiếng tơ xuân mới tiếng hòa ca.


                      Müenchen, xuân Ất Dậu, 14/02/ 2005
                                          THÁI KIM LAN  

(TCSH336/02-2017)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH