Cuộc sống trên những bánh xe

16:36 11/09/2008
TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết.                                                                                                                 TSCH


Những bó hoa lớn trên tay, chúng tôi ngồi trên xe hơi. Mới chỉ một giờ trước chúng tôi còn là cô dâu chú rể, bây giờ chúng tôi đã là vợ chồng.
Luồng xe cộ lưu thông của đại đô thị ôm chặt chúng tôi một cách ấm áp. Ở bên trái và ở bên phải chúng tôi, những ánh đèn tín hiệu giao thông đang nhấp nháy, phía trước và sau chúng tôi, những chiếc còi xe đang nhấn bóp, hàng chục động cơ đang gầm rú dưới capô xe, sẵn sàng phóng đi ở cơ hội đầu tiên. Nhưng chẳng có cơ hội nào cả, đang là giờ cao điểm kẹt xe. Có lẽ đúng là chúng tôi không thể di chuyển được trong những ngày đầu tiên. Chúng tôi đang chuyên tâm đến nhau đến nỗi chúng tôi đã chẳng có thì giờ để lái xe cho đúng lúc. Tuy vậy, sau một tuần, cô vợ trẻ của tôi trở nên bồn chồn đôi chút khi cô ấy khám phá ra rằng chiếc xe của chúng tôi thậm chí còn chẳng xê dịch được lấy một gang tay.
 “Thuyền bạn càng đi chậm chừng nào bạn càng tiến xa được chừng ấy”, tôi động viên nàng. Và tôi đúng. Ngày hôm ấy, chúng tôi dịch được ít nhất là nửa thước. Chúng tôi mở một bữa tiệc nho nhỏ để ăn mừng sự kiện này. Chẳng khó khăn gì để sắp đặt một bữa tiệc vì hai chiếc xe phía trước chúng tôi bấy giờ đang đỗ trước một cửa hàng bán đồ du lịch. Trong vòng hai tháng trời, cửa hàng bán đồ du lịch đã bán sạch hết mọi thứ hàng hoá. Nhưng không có nghĩa là chúng tôi có tai họa gì. Vào thời gian ấy, chúng tôi đã làm quen với một tài xế xe tải đang chở thực phẩm đông lạnh, một tài xế giao bia cho nhà hàng, một tài xế chuyên chở cá tươi. Người sau cùng là một anh bạn đặc biệt tốt bụng, bọn tôi đã trải qua những ngày tuyệt vời cùng nhau quanh cái bể chứa cá hương, với một cái cần câu làm bằng một sợi dây nịt và một cái đồ mở nút chai. Khi chúng tôi vượt qua được điểm tín hiệu giao thông đầu tiên, chúng tôi ăn mừng sự kiện này bằng cách mở một bữa tiệc trong chiếc xe buýt đỗ lân cận khu vực. Thực ra ngày hôm nay chúng tôi mắc một chứng đau đầu, và càng đau đầu hơn khi chúng tôi biết là cái bồn xe chứa bia đã bốc mùi chua. Ngoại trừ một vài rủi ro nho nhỏ, chúng tôi sống tốt đẹp và hạnh phúc. Đơn giản là dòng xe cộ đã quá đông đúc đến nỗi không có một con mèo đen nào có thể băng qua đường trước mắt chúng tôi cả.
Sau chín mùa trôi qua, con trai chúng tôi chào đời. Chúng tôi gọi nó là Ánh Sáng Giao Thông. Các cư dân của những chiếc xe hàng xóm đến thăm đứa bé, họ la lên: “Hoan hô!” và chúc cho kẻ mới sinh một cuộc đời êm ả như một con đường tráng nhựa. Không lâu sau đó, chúng tôi buộc phải đưa một bố cáo lên trên tấm kính chắn gió của xe mình. “Một xe hai chỗ ngồi muốn đổi một xe chỗ ngồi ít nhất là bốn. Xăng nhớt không quan trọng”. Xăng nhớt không quan trọng bởi vì con lộ đang chạy về phía xuống dốc. Có một lô đề nghị được đưa đến. Lẽ tự nhiên trong số đó có những kẻ muốn kiếm chút lợi ích ở tình trạng khó khăn của chúng tôi. Chẳng hạn, có một người nào đó muốn đổi cho chiếc Taporozheta cũ kỹ xộc xệch mà thậm chí cũng chẳng có lấy một động cơ nào của anh ta. Anh ta lập luận rằng nó sẽ cho một chỗ nằm tránh được gió, và rằng dù sao thì chuyện lái xe chẳng thành vấn đề gì nữa. Chúng tôi từ chối, bởi vì ngoại trừ những điều khác, chiếc xe nằm ngoài vòng đỗ xe của chúng tôi. Sau cùng chúng tôi quyết định chọn chiếc Pobeda tuy cũ hơn mà rộng rãi hơn. Điều tiện lợi không thể tranh cãi được của nó là sợi ăng ten dài thượt ở phía sau xe, rất thích hợp để phơi tã lót. Mọi việc dường như đang diễn biến suôn sẻ thì biến cố xảy ra. Không phải với chiếc xe vì nó không thể xảy ra sự cố với tốc độ chậm như vậy. Nó xảy ra với cuộc hôn nhân của chúng tôi. Chúng tôi phải đương đầu với sự kiện là con trai chúng tôi đã đến tuổi đi học. Nhưng vào thời buổi ấy người ta vẫn chưa thành lập một trường học trên xe buýt. Vợ tôi và tôi cùng thảo luận mọi ngóc ngách của vấn đề và cuối cùng phải quyết định hy sinh cuộc hôn nhân của chúng tôi để lo cho việc học hành của con trai mình. Chúng tôi chia tay. Bấy giờ vợ tôi và con trai tôi sống trong xe của một người đàn ông khác. Mặc dù xe là một chiếc tồi tàn, nhưng người đàn ông là một giáo viên tiểu học, và đó mới là vấn đề. Trong vòng bốn năm, tôi sẽ có thời gian để có con trai tôi sống với tôi. Ngay lúc này tôi sửa soạn gởi mẫu quảng cáo này đi khắp nơi. “Muốn chia sẽ một chiếc xe với một nữ giáo viên dạy khoa học, toán học, ngoại ngữ, nghệ thuật, âm nhạc và tâm lý học.” Nhưng một cách bí mật, tôi mơ đến cái ngày mà chúng tôi sẽ quay về nhà: con trai tôi đã tốt nghiệp đại học và nó là một chàng trai trẻ tuổi, độc lập, với một cô dâu bên cạnh nó, rồi thì chúng tôi có thể cùng nhau khởi động xe đi tới phòng đăng ký kết hôn.
VĨNH HIỀN dịch

(nguồn: TCSH số 228 - 02 - 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • KITA MORIO (Nhật Bản)Kita Morio (sinh năm 1927) là nhà văn thuộc thế hệ hậu chiến của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Y. Năm 1960 được trao giải thưởng mang tên Akutagawa với truyện ngắn Trong bóng tối đêm, cốt truyện xảy ra trong một bệnh viện tâm thần ở Đức thời kì Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Nổi tiếng với các tác phẩm giả tưởng khoa học và chống chiến tranh.

  • SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.

  • BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.

  • JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).

  • KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...

  • MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.

  • YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.

  • MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!

  • AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.

  • HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.

  • OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979  những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.

  • NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.

  • OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.

  • BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.

  • RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

  • ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.

  • JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.

  • A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".

  • ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.

  • ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.