Cuộc hẹn hò

15:45 30/03/2009
ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.

Nhà văn Arturo Vivante

Các tập truyện của ông gồm có: Những cô gái Pháp ở Kilini, 1967; Các truyện tiếng Anh, 1975; Chạy về nơi thác đổ, 1979. Sau đây là truyện ngắn có nhan đề tiếng Anh Can-Can, trích trong tuyển tập Fiction’s Many Worlds của nhà nghiên cứu Charles E. May. Tôi giới thiệu truyện này vì nó tiêu biểu cho nghệ thuật truyện cực ngắn của Vivante.
        NGUYỄN ĐỨC TÙNG



- Anh lái xe đi đây một lát, anh bảo vợ, và sẽ về nhà trong một hoặc hai giờ nữa.

Anh ít khi ra khỏi nhà quá vài phút, như khi cần tới bưu điện hay tạt qua quán tạp hoá, và thường loanh quanh làm việc này việc nọ trong nhà, như một “ông thợ sửa”, vợ anh hay gọi anh như thế. Đôi khi cũng sơn nhà cửa, chả là vì anh ta là thợ sơn.

- Được thôi mà, vợ anh bảo vui vẻ, như thể anh đang làm giúp chị một việc gì. Thật lòng, chị không muốn anh ra khỏi nhà chút nào; chị cảm thấy an toàn hơn khi có chồng ở bên cạnh và ông chồng cũng giúp chị chăm sóc con cái, nhất là đứa mới sinh.

- Anh đi khỏi thì em thích lắm hả, anh nói đùa.

- Aha, chị trả lời hơi mỉm cười, nụ cười làm khuôn mặt chị xinh hẳn lên, làm cho ai cũng muốn nhìn.

Chị không hỏi anh đi đâu, chị ít khi hỏi han chồng cặn kẽ, dù trong bụng cũng khá ghen tuông nhưng ngoài mặt thì tỏ ra tế nhị.

Khi mặc áo choàng, anh để ý nhìn chị. Chị đang ở trong phòng khách với đứa con gái lớn. “Nhảy đầm đi mẹ ơi”, đứa con gái nói, nó vừa kéo thốc váy lên, vừa khiêu vũ, đá hất hai chân lên về phía cha nó.

Anh không lái xe đi một lát như anh nói, mà tới thẳng tiệm cà phê nơi anh có hẹn với Sarah, là người mà vợ anh có biết nhưng không mảy may nghi ngờ, và từ đó cùng nhau đi tới một cái nhà bên bờ hồ, một nơi vợ anh không hề biết - một cái nhà nghỉ mùa hè mà chỉ anh có chìa khoá.

- Anh đi nhé.

- Tạm biệt, chị nói với theo, vẫn khiêu vũ với đứa con gái.

Đó không phải là lối mà một người chồng như anh quen nghĩ về vợ, kẻ anh để lại ở nhà trong khi đi gặp người phụ nữ khác, anh cứ quen nghĩ là chị ở nhà khâu vá hay rửa chén bát, chứ không phải nhảy đầm. Phải rồi, làm một thứ gì đó rất bình thường, rất đáng chán, như giặt áo quần trẻ con chẳng hạn. Chị không mang tất, không mang giầy, mà cặp đùi thì trắng mượt mà quá, có vẻ bí mật, mặc dù chẳng bao giờ anh chạm vào hay tới gần. Hai bàn chân của chị lại đưa lên đưa xuống cao vun vút, làm như đang gật đầu với anh. Chị nâng váy lên, trông quá sức hấp dẫn. Tại sao cô ta lại đi làm mấy cái thứ khỉ gió đó vào lúc này kia chớ? Anh tự hỏi một cách ám ảnh. Cặp mắt của cô hơi chế nhạo, và cô lại cười phá lên nữa. Đứa con gái cũng cười với mẹ. Hai người vẫn tiếp tục nhảy khi anh ra khỏi nhà.

Nhiều khó khăn lắm mới thực hiện được cuộc hẹn này, anh tới một cái máy điện thoại công cộng trả tiền, gọi cho Sarah ở chỗ làm của cô ấy (cô cũng có chồng rồi); Sarah đi vắng; anh phải gọi cho cô lần nữa; đường dây lại bận; đồng tiền bỏ vào máy điện thoại rớt ra mất tiêu, lăn đi đâu không biết nữa, anh phải đẩy cửa trạm điện thoại ra ngoài để tìm nó mỏi mắt; cuối cùng thì cũng gặp được Sarah trên điện thoại; cô ta bảo anh gọi lại tuần lễ sau; cuồi cùng hai người mới định được cuộc hẹn này đây.

Ngồi chờ Sarah ở quán cà phê, anh ngạc nhiên thấy mình bỗng hi vọng rằng cô ấy sẽ không tới được. Hẹn lúc ba giờ. Trễ đã mười phút. Nhưng Sarah cũng thường hay tới trễ lắm. Anh nhìn đồng hồ, rồi nhìn ra cửa sổ chờ xe hơi của cô. Một cái xe giống như xe cô trườn tới, nhưng không phải – vì trên mui xe không có cái giá mang hành lý. Cái trần xe trơn tru làm anh thích chí. Tại sao vậy kìa? Bây giờ là ba giờ mười lăm phút. Có lẽ cô ấy không tới được. Không, nếu Sarah quyết định tới thì vào lúc này đây cô ấy đã ở đây rồi. Hai mươi phút đã qua. A, một cái gì đó như niềm hi vọng dâng lên. Hi vọng ư? Thật là kì quái việc anh hi vọng Sarah không tới. Thế thì tại sao anh phải làm cuộc hẹn hò đầy khó khăn này nếu trong bụng mong là cô lỡ hẹn? Anh chẳng biết tại sao, nhưng mọi chuyện sẽ đơn giản hơn, đơn giản hơn rất nhiều nếu cô không đến. Bởi vì tất cả những ao ước bây giờ của anh là được hút một điếu thuốc, được nhấp một ngụm cà phê vì tất cả cái phong vị của chúng, mà anh chẳng phải buộc mình  làm một điều gì cả. Anh ao ước sẽ được lái xe một vòng, dễ dãi, tự do tự tại, như anh nói lúc ở nhà. Nhưng anh vẫn đợi và đến ba giờ ba mươi thì Sarah tới thật.

- Anh gần như bỏ cuộc không hi vọng nữa, anh bảo cô.

Họ lái xe đến căn nhà nghỉ bên bờ hồ. Khi choàng tay đưa cô vào nhà, anh chẳng thể nào nghĩ đến Sarah; chẳng thể nào nghĩ được.

- Anh nghĩ gì mà thừ người ra vậy, Sarah hỏi, nhận ra sự thẫn thờ khác thường của anh.

Anh im một lát không trả lời, rồi nói:  Em có thực sự muốn biết anh đang nghĩ gì không?

- Có chớ, Sarah trả lời, hơi lo lắng.

Anh cố nín cười, như thể điều anh sắp nói với cô quá ngốc nghếch, tào lao.

- Anh nghĩ đến một người đang khiêu vũ.

- Ồ, Sarah nói, cô cảm thấy yên tâm, vậy mà em cứ sợ là anh đang nghĩ tới vợ anh ở nhà.

NGUYỄN ĐỨC TÙNG dịch
241/03-09

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật

  • ISABEL MILES (Anh)

  • Salman Rushdie (1947), nhà văn và người viết tiểu luận, gốc Ấn, hiện sống tại Mỹ, là tác giả của nhiều tiểu thuyết gây tiếng vang, như Những đứa con của nửa đêm, được trao giải Booker, năm 1981, và cả những tiểu thuyết gây tranh cãi như Những vần thơ của Satan, 1988. Văn phong Rushdie thâm trầm, khoáng lộng, hài hước và tươi mới.

  • FRANK O’CONNOR  

    Khi tôi tỉnh giấc, tôi nghe có tiếng mẹ ho ở nhà bếp. Mẹ bị ho đã nhiều ngày nhưng tôi không để ý. Chúng tôi sống ở Old Youghal Road, nơi mà vào lúc đó, có một con đường nhiều đồi dốc dẫn tới East Cork.


  • E. RUXACỐP (Nga)

  • ABDULRAZAK GURNAH    

    Tôi nghĩ anh ta đã nhìn thấy tôi đang tiến lại gần, nhưng vì lý do riêng nào đấy nên anh ta vẫn không có dấu hiệu gì.

  • Maurice Druon, sinh năm 1918, theo học Đại học Luật Paris. Trong chiến tranh thế giới ln thứ hai, ông tham gia lực lượng kháng chiến Pháp chng phát xít Đức, là thông tin viên Đài Phát thanh Kháng Chiến. Giải Goncourt 1948 với tác phm "Đại Gia đình" (Les Grandes Familles). Các tác phm đậm chất trữ tình của nhà văn: "Kết thúc đời người" (La Fin des Hommes), "Hẹn gặp tại Địa ngục" (Rendez-vous aux enfers) phản ánh một thiên hướng theo trường phái Balzac.
    Ông đồng thời là tác giả một số tiểu thuyết lịch sử.

  • JENNIFER WALKUP   

    Tôi sẽ không nói với ai về việc chẩn đoán.
    Không hé răng với mẹ hay em gái tôi. Chắc chắn không phải Jake và có lẽ với Steve cũng không hề.

  • GRAHAM GREEN

    Cái chết đến kề như một nỗi nghiệt ngã day dứt mà ta hổ thẹn không dám thổ lộ với bạn bè hoặc đồng nghiệp.

  • ELISABETH SILANCE BALLARD

    Một truyện ngắn cảm động về tình thầy trò. Truyện khiến người đọc có thể nghĩ chuyện xảy ra hôm nay, không phải cách đây hơn bốn mươi năm.

  • Tác giả tên đầy đủ là Heinrich Theodor Böll (1917 - 1985). Ông được coi là một trong những nhà văn lớn nhất của Đức thời hậu chiến. Năm 1972 ông được nhận giải Nobel Văn học. Tác phẩm và quan điểm chính trị của Böll thể hiện khát vọng xây dựng một xã hội mang tính nhân văn. Các tiểu thuyết tiêu biểu của ông: “Thiên thần im lặng”, “Và tôi đã không nói một lời duy nhất”, “Nhà không có người che chở”, “Qua con mắt của chú hề”, “Bức chân dung tập thể với một quý bà”…

  • KATE CHOPIN

    Catherine O’ Flaherty sinh năm 1850 tại Saint Louis, Missouri, bố gốc người Ái Nhĩ Lan, mẹ gốc Pháp, lớn lên trong môi trường đa văn hóa, từ nhỏ đã nói tiếng Pháp đồng thời với tiếng Anh.

  • Nhà văn, nhà thơ, triết gia, họa sỹ, dịch giả Ấn Độ Rabindranath Tagore sinh năm 1861 tại Calcutta, Ấn Độ và mất năm 1941. Ông để lại một di sản văn học - nghệ thuật đồ sộ với hàng ngàn tác phẩm đủ các thể loại. Tagore còn là nhà yêu nước, đòi giải phóng Ấn Độ khỏi sự cai trị của Anh. Ông được trao giải Nobel văn học năm 1913.

  • O’Neil De Noux sinh ngày 29/11/1950 tại New Orleans, bang Louisiana, Hoa Kỳ. Ông là một nhà văn Hoa Kỳ có sức sáng tác mãnh liệt với nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn, đã có 42 đầu sách được xuất bản. Phần lớn sáng tác của ông là truyện trinh thám hình sự, tuy nhiên ông cũng viết nhiều thể loại khác như tiểu thuyết lịch sử, truyện dành cho trẻ em, truyện khoa học viễn tưởng, kinh dị, tình cảm, v.v.

  • JASON HELMANDOLLAR

    Jason Helmandollar là một nhà văn người Mỹ, tác giả của nhiều truyện ngắn nổi tiếng được đăng trên các báo, tạp chí đang thịnh hành lúc bấy giờ như Encounters Magazine, Bartleby Snopes, Title Goes Here, Sideshow Fables. “The Backward Fall” là một trong những truyện ngắn hay và hấp dẫn của ông.

  • TIMUR JONATHAN KARACA

    Timur Jonathan Karaca được sinh ra ở San Francisco. Ông là bác sĩ y khoa khoa gây mê tại UCSF. Ông sống ở Oakland, nơi ông hành nghề. Karaca theo học sáng tác tại Studio Hi Nhà văn San Francisco.

  • Naguib Mahfouz (1911 - 2006) sinh ra trong một gia đình nghèo tại Cairo. Ông học triết học tại Đại học Cairo và làm công chức cho tới khi về hưu năm 1971. Mahfouz là nhà văn lớn của Arab và của thế giới. Ông có 35 tiểu thuyết, 14 tập truyện ngắn và nhiều tác phẩm kịch. Tác phẩm của ông rất phổ biến ở phương Tây. Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.
    Truyện ngắn dưới đây diễn tả bi kịch của cá nhân khi bị phụ thuộc vào kẻ khác. Tuy nhiên, như rất nhiều tác phẩm khác của văn học Arab, nó còn mang tính ẩn dụ và nghĩa hàm ẩn.

  • ALBERT LAMORISSE (Pháp)

    Albert Lamorisse là một nghệ sĩ đa tài của nước Pháp. Ông vừa viết văn, làm thơ, vừa biên kịch và đạo diễn điện ảnh. Truyện "Quả bóng đỏ" (Le Ballon Rouge) này đã được chính Albert Lamorisse dựng thành phim, rất nhiều người hâm mộ.