Cuộc gặp gỡ giữa hai danh nhân văn hóa

08:58 01/09/2017

DƯƠNG PHƯỚC THU

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, nhận chỉ thị của Hồ Chủ tịch, đại diện Ủy ban Nhân dân lâm thời Thừa Thiên và Ủy ban Nhân dân Trung Bộ đóng tại Huế đã đến mời cụ Huỳnh Thúc Kháng, một tiến sĩ Nho học yêu nước, một nhà báo nổi tiếng, một người không đảng phái ra Hà Nội gặp cụ Hồ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Huỳnh Thúc Kháng (hàng đầu, thứ nhất từ phải sang) trong Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Ảnh: internet

Mới đầu cụ Huỳnh do dự “để còn xem”. Tiếp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Nguyễn Hải Thần, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp gửi các bức điện tha thiết mời, cụ Huỳnh nhận lời(1).

Lúc bấy giờ, nhà thơ Tố Hữu đang làm Phó Bí thư Xứ ủy Trung Bộ, trong hồi ký Nhớ lại một thời, ông viết: “Một tháng sau lại được điện của Trung ương bảo đến gặp cụ Huỳnh Thúc Kháng và mời cụ ra làm việc với cụ Hồ. Cụ Huỳnh vốn tính khẳng khái, tuy đã biết uy tín lớn của ông Nguyễn Ái Quốc, còn tỏ ý dè dặt: không biết có thích hợp không với chế độ mới mà cụ gọi là cộng sản. Chúng tôi phải thưa với cụ Huỳnh rằng Hồ Chủ tịch rất quý trọng cụ, xin mời cụ ra làm việc nước với Hồ Chủ tịch. Nghĩ một lát, cụ nói: “Thôi được, tôi đi ngay nhưng vài ngày thôi rồi lại trở về”. Vì vậy khi lên ô tô, cụ Huỳnh chỉ mang theo một gói áo quần nhẹ tênh. Sau mới biết ra đến Hà Nội, gặp cụ Hồ, hai cụ hàn huyên thế nào đó, cụ tỏ ý tâm đắc và chịu ở lại luôn, nhận một nhiệm vụ rất quan trọng được Hồ Chủ tịch giao cho là Bộ trưởng Bộ Nội vụ”(2). Và chỉ ba tháng sau, trước lúc lên đường sang Paris với vai trò là thượng khách của Chính phủ Pháp, Hồ Chủ tịch đã tin tưởng ủy thác, giao Quyền Chủ tịch nước cho Huỳnh Thúc Kháng gánh vác. Với phương châm xử thế “dĩ bất biến ứng vạn biến” theo lời của Hồ Chủ tịch, cụ Huỳnh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quan trọng trong một thời đoạn đất nước trước hiểm họa “ngàn cân treo sợi tóc”...

Ngày rời Huế, ngoài số cán bộ của Xứ ủy tháp tùng, còn có ông Nguyễn Xương Thái, một người Quảng Nam, từ năm 1926 ông đã tích cực vận động thành lập Công ty Cổ phần Huỳnh Thúc Kháng, tham gia quản lý báo Tiếng Dân, trực tiếp điều hành mọi hoạt động của Nhà in “Tiếng Dân” và giao thiệp với cổ đông của Công ty được cụ Huỳnh rất tin cẩn, coi như thư ký riêng, cùng ra Hà Nội để giúp việc cho cụ Huỳnh làm việc nước.

Ra Hà Nội được 10 ngày, thì có tin điện từ Huế báo: con trai ông Thái mới 19 tuổi là tự vệ cứu quốc bị bệnh đau bụng chết. Nguyễn Xương Thái vốn bị bệnh đau dạ dày lâu ngày, nghe tin con chết đột ngột, ông buồn lâm bệnh nặng thêm. Thứ trưởng Bộ Nội vụ Hoàng Hữu Nam giới thiệu Nguyễn Xương Thái vào điều trị tại Bệnh viện Đồn Thủy, Hà Nội, với tư cách là cán bộ của Bộ Nội vụ.

Cuối tháng 5/1946, ông Trần Đình Phiên, người có tên ghi trên báo Tiếng Dân dưới vai trò quản lý ngay từ số đầu tiên (8/1927) đến số cuối cùng (4/1943) là nhân vật thân cận của chủ bút Tiếng Dân gửi điện và thư cho cụ Huỳnh đang ở Hà Nội, xin cụ cho Nguyễn Xương Thái trở lại Huế hợp lực cải tổ Ban Quản trị Nhà in “Tiếng Dân”, thay mặt cụ Huỳnh đang bận công việc Chính phủ. Sau một thời gian điều trị được ra viện, cụ Huỳnh Thúc Kháng xin Chủ tịch Hồ Chí Minh cho ông Thái về Huế. Hồ Chủ tịch hỏi: “Làm công việc đó, lâu mau thì xong?” Huỳnh Thúc Kháng đáp: “Theo điều lệ của “Tiếng Dân”, phải mất hai tháng, Hồ Chủ tịch nói với Nguyễn Xương Thái: “Về ráng làm cho giỏi rồi trở ra”.

Trước hôm về Huế, Hồ Chủ tịch tặng Nguyễn Xương Thái tấm ảnh của Người và nói: “Hương Giang thân hữu như tương vân”. Ngày hôm sau, đích thân Hồ Chủ tịch dẫn Nguyễn Xương Thái ra xe đi cùng ô tô với chị Nguyễn Khoa Bội Lan(3) từ Huế ra Hà Nội, nay trở về, và chia tay ông với tình cảm thắm thiết.

Mấy hôm sau, biết tin Nguyễn Xương Thái về Huế, nhà báo Thúc Tề, cán bộ Ty Thông tin Tuyên truyền Thừa Thiên đã có cuộc trao đổi với ông về tình hình Thủ đô sau ngày thành lập nước, về cụ Hồ, về công việc và sức khỏe cụ Huỳnh..., mà Thúc Tề gọi là lời của “Một người thân cận của cụ Huỳnh Thúc Kháng thuật lại”.

Nhà báo, nhà thơ Thúc Tề tên thật là Nguyễn Thúc Nhuận, sinh năm 1916, quê ở làng Mỹ Lam, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông làm thơ viết báo từ năm 19 tuổi, có chân trong Ban biên tập và làm chủ bút của nhiều tờ báo ở Sài Gòn; có thơ tuyển trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân. Sau Cách mạng tháng 8/1945, ông hăng hái tham gia hoạt động trong Liên đoàn Văn hóa cứu quốc Thừa Thiên, cùng với Hải Triều, Hà Thế Hạnh thành lập Sở Tuyên truyền Trung Bộ. Đầu năm 1946, Thúc Tề được tổ chức phân công cùng ông Hoàng Thượng Khanh thành lập Ty Thông tin Tuyên truyền Thừa Thiên.

Đang trong giai đoạn tràn đầy nhiệt huyết cách mạng, tích cực hoạt động sôi nổi trên các lĩnh vực tuyên truyền văn hóa, sáng tác văn học và báo chí, vào đầu tháng 12 năm 1946, Thúc Tề bị thực dân Pháp bí mật bắt cóc, thủ tiêu vứt xác ở gần ga Truồi, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Theo cuốn Chân dung các nhà báo liệt sĩ do Hội Nhà báo Việt Nam xuất bản năm 1999, Thúc Tề là nhà báo liệt sĩ đầu tiên kể từ sau ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bài báo dưới đây là tác phẩm cuối cùng của nhà báo Thúc Tề mà chúng tôi vừa tìm được.

Nhân kỷ niệm 72 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh ngày 2 tháng 9, chúng tôi xin giới thiệu nguyên văn bài báo của Thúc Tề đăng trên tờ Quyết Thắng, cơ quan của Việt Minh Trung Bộ, do ông Lê Chưởng làm chủ bút, số 56 ra ngày 20/7/1946.   


BUỔI DIỆN KIẾN ĐẦU TIÊN GIỮA CỤ HỒ CHỦ TỊCH VÀ CỤ HUỲNH THÚC KHÁNG  


Bình tĩnh và giản dị là hai đức tính rất đẹp của cụ Hồ Chủ tịch, cũng như sáng suốt và khôn khéo là hai mặt khác của tài năng cụ khiến một ký giả ngoại quốc gọi cụ là một nhà chính khách đáng sợ (politieien redòutsble). Nhưng bạn đừng tưởng vì nhiễm thói quen của người chính khách mà cụ bình tĩnh đến dửng dưng. Trái lại, cụ là người rất hay cảm động. Cảm động vì đức hy sinh quá cao của các chiến sĩ, vì những bức thư của các em bé, vì những quà tặng của những đồng bào ở chốn trời xa. Nhưng có mối cảm động sâu xa nhất của cụ là lúc đầu tiên, diện kiến cụ Huỳnh Thúc Kháng. Về chỗ này, tôi xin nhường lời cho ông Nguyễn Xương Thái, người thư ký tay chân cho cụ Huỳnh Thúc Kháng vừa ở Thủ đô về Thuận Hóa. Không bỏ lở một dịp tốt, tôi đã đến thăm ông và đột ngột hỏi:

- Ông già vẫn mạnh chứ, anh?

- Nhất định như thế rồi mặc dầu mấy hôm đi đường có vội vàng vất vả và từ bữa nhận trọng trách, công việc có bề bộn.

- Anh kể cho tôi nghe cuộc hội kiến đầu tiên giữa hai cụ.

- Vâng, có thể là lịch sử lắm và rất cảm động. Hôm đó chúng tôi đến Bắc Bộ Phủ vào tám giờ tối. Cụ Hồ đi vắng, chỉ có ông Võ Nguyên Giáp tiếp chúng tôi. Đêm ấy, hai thầy trò cùng nghỉ trên giường của cụ Hồ, một cái giường chăn nệm sạch sẽ mà giản dị vô cùng. Sáng lại, lúc tôi dùng trà thì cụ Hồ về tới. Dường như đã được báo trước nên cụ đi vào thật nhanh, cởi vội chiếc mũ và cây ba toong rồi chạy lại reo lên hai tiếng: “Cụ Huỳnh!” Đoạn hai ngài ôm nhau xúc cảm đến rơi lụy. Tiếng reo của Hồ Chủ tịch giờ con vang trong tai tôi vì đó là âm thanh đã đánh dấu cho bước đi của dân tộc. Lần này là lần đầu hai ông lão gặp nhau. Kẻ gần sáu chục, người trên bảy mươi; tuy chưa có dịp trùng phùng chớ đã từng đếm bước của nhau đi trên con đường bôn tẩu quốc sự. Nhưng cụ cố thân sinh ra Hồ Chủ tịch vừa là bạn thân của cụ tôi, lúc cụ cố còn ở Huế. Thế rồi hàn huyên xong, hai ngài liền bắt tay vào việc.

- Giờ ngoài việc Quyền Chủ tịch, cụ Huỳnh giữ những trọng trách nào?

- Nội vụ, Tuyên truyền và Công an, cụ tôi làm việc không ngừng. Có khi mới ba giờ sáng đã ra ngồi bàn giấy. Cũng thừa may có ông Hoàng Minh Giám là một tay giúp việc đắc lực. Ồ, còn cụ Chủ tịch thì lại bận vô cùng. Lắm hôm, không lựa được lúc rỗi mà xơi cơm. Tiếp các thượng quan Trung Hoa, phái bộ Mỹ, các tay đặc phái viên thông tấn và đại biểu ở các nơi về. Cụ biết rất nhiều thứ tiếng và nói tiếng Mỹ rất sành sỏi.

- Nhờ con mắt nhà báo, chắc anh đã gặp nhiều nhân vật quốc tế?...

- Có. Tôi đã gặp đại tướng Lư Hán trong một bữa dạ yến. Lư tướng quân tuổi gần năm mươi, người rất có dáng vẻ quan võ mà thích chơi văn. Hôm ấy ngài có xin cụ Huỳnh làm ba bài thơ, cụ làm một hơi thì xong, dường như Lư tướng quân cũng lấy làm thú.

- Anh có để ý đến đời sống bên trong của cụ Hồ?

- Cụ thì thật là một bực vong kỷ. Sống đạm bạc đến phi thường. Thủy chung cụ chỉ có mấy bộ ka ki và mấy chiếc sơ mi. Đã mấy lần mấy ông tính thưa để may đồ cho cụ mà cụ gạt đi, đến khi gần đi Pháp cụ mới chịu để may. Cụ chưa khi nào nghĩ chu đáo cho mình, thật điều ấy làm cho những kẻ giá áo túi cơm nghe đến đủ xấu hổ mà chết. Cụ thường đi dạo chơi một mình và ít khi ngờ đến khúc nhạc kính mến của quốc dân đương vang động bên mình.

Những tin tức ở trời Tây gửi về giúp cho ta nhận định rằng cụ Hồ Chủ tịch của chúng ta có thừa phong độ của một bậc quốc trưởng, của một chính khách quốc tế. Chỉ một điểm đó cũng đủ làm cho ta được ấm lòng, vì nghĩ rằng quốc thể của ta đã được cụ nâng cao, trong lúc cụ đã vẻ vang giới thiệu dân tộc chúng ta ở giữa chốn năm châu chung chợ”.


D.P.T
(TCSH343/09-2017)

-------------------
1. Nguyễn Thành, Lịch sử báo Tiếng Dân.
2. Tố Hữu, Nhớ lại một thời (hồi ký), Nxb. VH-TT, 2002.
3. NB, Chủ nhiệm TC Ánh Sáng, cơ quan của Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Trung Bộ.
4. Bí danh của Tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên.




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN THỊ KIÊN TRINH

    Mùa hè năm nay tôi có dịp trở lại Sài Gòn. Thành phố với bao đổi thay nhưng tôi chưa kịp nhận thấy hết bởi thời gian tôi lưu lại Sài Gòn quá ngắn ngủi.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cũng lạ cho cái xứ Huế của tôi, cái chi cũng khác hơn thiên hạ. Nắng thì nắng cháy da phỏng trán, mưa thì mưa thúi đất thúi đai, dầm dề không dứt. Vài ba năm lại một trận lụt, trận bão to đùng.

  • BÙI KIM CHI

    “Tháng 7 nước nhảy lên bờ”. Mà lên bờ thiệt. Mưa. Mưa. Mưa… kéo dài lê thê. Lúc đầu nhỏ sau lớn dần. Nặng hạt. Xối xả. Cây cối trong vườn ngả nghiêng theo mưa và gió. Cây Lựu trước sân nhà tôi tơi tả. Trời tối dần. Mưa càng lúc càng to. Ào ào như thác đổ. Mưa suốt đêm. Sấm đất cuốn vào mưa. Ầm ầm. Ào ào. Âm thanh rộn rã…

  • Khi những giọt mưa ngâu tháng bảy bất ngờ trở về, làm xao động cả bầu trời mệt mỏi đang chìm lặng trong lòng sông Hương, Huế bỗng rùng mình chợt tỉnh cơn mê mùa hạ. Đó cũng là thời khắc mùa Vu lan đang về trên đất trời cố đô.

  • Hồi còn học ở Trường Đại học Sư phạm Huế, tôi có hai người bạn, hợp thành một nhóm, thường uống rượu với nhau khi vui cũng như khi buồn.

  • LTS: Tác giả của câu chuyện dưới đây, sinh ra và lớn lên ở làng quê Triều Sơn Nam, xã Hương Vinh, Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Anh sinh ra trong sự oan nghiệt khủng khiếp của cuộc sống khi buổi sáng mẹ anh quằn quại nghe tin đau xé mất chồng, buổi chiều mẹ đón nhận tiếng khóc chào đời của anh.

  • NGUYỄN LỆ BA

    Gia phả họ Nguyễn Quang ghi chép, tổ tiên chúng tôi là những người đã ra đi từ đất Huế. Thuở dong buồm về phương Nam đi tìm đất mới, những lưu dân đầu tiên đến dựng làng lập ấp trên vùng sông nước quê tôi chỉ vỏn vẹn vài dòng họ với đôi ba chục con người.

  • BÙI KIM CHI

    Đã có một lần tôi được trở về thăm Huế vào một mùa trăng. Cảnh vật thiên nhiên trời ban riêng cho Huế làm Huế duyên dáng và đẹp lạ lùng vào những đêm trăng. Trăng Huế vì thế mà có nét đẹp rất riêng, là lạ, duyên dáng, lộng lẫy và quyến rũ trong phong cảnh vừa thơ, vừa duyên và lãng mạn của trời đất Huế về đêm.

  • NHÂN KỶ NIỆM 50 NĂM BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VỊ PHÁP THIÊU THÂN

    NGUYỄN BỘI NHIÊN

  • Một nam sinh như tôi lại học trường nữ trung học Đồng Khánh (trường THPT Hai Bà Trưng hiện nay), có thể một số người cho đó là chuyện lạ đời. Nhưng đấy lại là sự thật 100%! Tuy tôi chỉ học ở trường Đồng Khánh một năm lớp năm bậc tiểu học (bây giờ là lớp 1) vào khoảng những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước. Nhưng không hiểu tại sao tôi lại còn nhớ nhiều những kỷ niệm về năm học đầu đời ấy mãi tới tận bây giờ.

  • TRIỆU BÔN
             Hồi ký

    Mùa mưa năm 1968 ở mặt trận đường Chín - Khe Sanh, trung đoàn 246 chúng tôi được gọi đùa là trung đoàn hai bốn đói. Ngày ngày chúng tôi sống bằng ba nguồn chính: thịt thú rừng, rau môn thục, và đỗ xanh.

  • NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi niềm đau đáu về quê hương, nơi mình được sinh ra và chắt chiu nuôi dưỡng trong từng hạt cát, từng trận mưa dầm dề thúi trời thúi đất hay nắng lửa trên cồn khô cát cháy, mà những con người ở đây sẵn mang một tấm lòng lồng lộng gió trời trải đi khắp muôn phương...

  • BÙI KIM CHI

    Tôi đang đứng ở đây. Bến xe đò Đông Ba của thế kỷ trước. Bùi ngùi. Xúc động. Bến xe đã không còn. Thật buồn khi nơi này đã vắng bóng những chiếc xe đò dân dã, thân thương thuở ấy cùng những tà áo trắng học trò dung dị với giọng Huế trong trẻo ơi ới gọi nhau lên xe kẻo trễ giờ học.

  • NGUYỄN VĂN UÔNG
                         Tùy bút

    Tuổi càng cao càng có nhiều nỗi nhớ vu vơ. Tôi đang trong tình trạng đó. Nhớ cồn cào đến xao xuyến là mỗi dịp xuân về: Nhớ Tết quê tôi. Nhớ tuổi thơ tôi và nhiều nỗi nhớ khác nữa.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Thuở nhỏ, tôi thường trốn ngủ trưa đi nghe hát vè. Ở Huế lúc ấy gọi là nói vè, như theo tôi phải gọi là hát vè thì đúng hơn, bởi người hát có bài có bản, có giai điệu, trầm bổng, có cả nhạc cụ.

  • HỒ XUÂN MÃN
    (Nguyên UVTƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế)

    Năm 1973, để chuẩn bị cho ký kết hiệp định Paris, Khu ủy và Quân khu Trị Thiên - Huế chủ trương tổ chức các lực lượng (bao gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) tổ chức đánh chiếm các căn cứ và phân chi khu địch để giành đất, nắm dân, cắm cờ giành quyền làm chủ.

  • TRẦN THỊ NHƯ MÂN

    Tôi sinh ra trong gia đình quan lại, đã mấy đời làm quan với triều đình Huế(1). Khi tôi lớn lên thì chế độ cai trị của thực dân Pháp đã bước vào giai đoạn ổn định sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Chiếc ngai vàng của nhà Nguyễn từ nay trở đi chắc không còn phải chịu những cơn sóng gió đáng kể chi nữa.

  • HUY CẬN - XUÂN DIỆU
          Trích "Hồi ký song đôi"

    Tháng 8 năm 1928 cậu tôi được lệnh của Sở học chính Trung kỳ đổi về Huế làm hiệu trường trường tiểu học Queignec ở phố Đông Ba.

  • LÊ QUANG KẾT
             Bông hồng dâng mẹ 

    Vua Tự Đức - ông vua tại vị gặp cơn biến động trong lịch sử dân tộc, sinh thời nhà vua đã tán dương công ơn mẹ: “Nuôi ta là mẹ, dạy ta cũng là mẹ: Mẹ là Thầy vậy. Sinh ra ta là mẹ, hiểu ta cũng là mẹ: Mẹ là Trời vậy”.

  • TRẦN HOÀN
                Hồi ký

    Năm 1941 thi vào trường Quốc Học, tôi đỗ vào loại khá nhưng chưa đủ mức để được cấp học bổng toàn phần.