Cuộc đối đầu văn hóa hai bờ Hiền Lương

09:23 12/10/2009
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

Cầu Hiền Lương lịch sử - vĩ tuyến 17, trong quá khứ. Ảnh: tuoitre.com.vn

HIỀN LƯƠNG - CHIẾC CẦU HAI MÀU SƠN

Cầu Hiền Lương bắc sông Bến Hải tại km 735 trên đường thiên lý Bắc -Nam là biểu tượng của sự chia cắt đất nước. Bến Hải là do người Pháp gọi từ một địa danh ở thượng nguồn có tên là Bến Hai. Sông Bến Hải xưa tên là Minh Lương. Đó là tên của một làng, nơi hợp lưu 2 sông Bến Hải và Sa Lung. Thời Minh Mạng, do húy chữ “Minh” nên tên làng, tên sông đều đổi thành Hiền Lương. Cầu Hiền Lương do Pháp xây dựng lại 5- 1952, dài 178 mét, 7 nhịp, trụ bằng bê tông cốt thép, mặt cầu lát gỗ thông, rộng 4 mét... Suốt mười mấy năm trời, bà con thân thích hai bờ sông không được qua cầu thăm viếng nhau. Một lần, một số anh em lính ngụy giác ngộ đã lái xe chạy thẳng qua cầu ra Bắc, nhưng đến giữa cầu thì bị bọn cảnh sát ngụy bắn thủng lốp và bị bắt!

Từ khi sông Bến Hải thành giới tuyến, cầu Hiền Lương cũng bị chia đôi. Trước đó,  giữa cầu được vạch một đường chỉ ngang, sơn trắng, rộng 1 cm, làm ranh giới hai miền. Mỹ- Ngụy âm mưu dùng màu sơn để chia cắt đất nước ta, chúng sơn màu xanh nửa cầu phía Nam. Chúng vừa sơn xong đầu hôm, thì trong đêm, công an ta lại sơn lại cầu bằng màu xanh cho chung màu. Vài hôm sau chúng sơn chia cắt bằng màu nâu. Cứ thế cầu Hiền Lương luôn thay đổi màu sắc. Nhà văn Nguyễn Tuân đã đến trên cầu Hiền Lương, ông  viết: “Cầu chia làm hai phần, mỗi bên dài 89 mét, sơn hai màu khác nhau. Bờ bắc gồm 450 tấm ván mặt cầu, bờ nam 444 tấm”. Hễ địch sơn một màu khác đi để tạo ra hai màu đối lập, thì lập tức ta xóa đi thành một màu chung. “Cuộc chiến màu cầu” kéo dài mấy năm trời, cuối cùng kẻ địch phải chịu thua để cho chiếc cầu chung một màu sơn thống nhất!

ĐỒN LIÊN HỢP MÀ NGƯỜI XÂY KẺ PHÁ

Theo Hiệp định Giơnevơ, mỗi bên có 2 đồn cảnh sát: đồn Hiền Lương, Cửa Tùng (bờ bắc) , đồn Xuân Hòa và Cát Sơn ở bờ nam, thường gọi là Đồn Liên hợp. Số cảnh sát mỗi đồn quy định không quá 20 người. Cảnh sát có nhiệm vụ giữ gìn quy chế khu phi quân sự, kiểm tra người qua lại giới tuyến. Ai muốn qua phải có giấy thông hành do hai đồn hai bên cấp, chỉ được vào các chợ buôn bán, không được đi sâu vào các làng xóm. Riêng cầu Hiền Lương dân không được qua. Hàng tháng vào ngày chẵn, một tổ 3 cảnh sát của ta mang sổ trực qua cầu sang bờ Nam, và vào ngày lẻ, một tổ 3 cảnh sát ngụy sang bờ bắc trao đổi công tác. Ở đồn Cửa Tùng, mỗi tuần cảnh sát hai bên “đổi bờ” một lần với một tổ 6 người. Mỗi đồn thường xuyên có 2 người trực, một ta một địch. Đến cuối tuần, hai bên cùng ký biên bản đổi bờ. Cuốn “sổ trực ban” đồn Cửa Tùng hiện vẫn còn được lưu giữ tại phòng truyền thống Vĩnh Linh. Gọi là đồn liên hợp nhưng cảnh sát ngụy ngụy thì luôn luôn gây thù hằn, chia rẽ, công an ta  thì kêu gọi đoàn kết thống nhất! Tại Đồn Liên hợp đã diễn ra cuộc đấu tranh căng thẳng. Rất nhiều lần cảnh sát ngụy nói xấu chế độ miền Bắc, đi đứng nghênh ngang, nói năng tục tĩu, tặng quà mỵ dân. Giữa năm 1959, một tổ cảnh sát Ngụy sang bờ Bắc làm việc. Chúng lân la đến tổ dệt xăm (lưới) của phụ nữ Vinh Quang, nói xấu miền Bắc, lập tức bị các chị đáp lại thẳng thừng: ”Các anh có mắt như mù, Mỹ- Ngụy không độc ác sao có luật 10-59”. Vào dịp Tết năm 1960, cảnh sát  ngụy qua đổi gác, chúng xông đến trường học phát kẹo cho học sinh, bị các em  ném trả: “Cháu Bác Hồ không biết ăn kẹo Mỹ Diệm!”.

Điều trớ trêu là chiến sĩ công an ta phải cùng đi với kẻ thù trên một con đò, ngồi cùng một bàn làm việc. Có những lúc địch dùng vũ lực thô bạo, khiêu khích đe dọa đến tính mạng, nhưng các chiến sĩ vẫn bình tĩnh, dũng cảm đấu trí, đấu lý vạch mặt kẻ thù. Đó là bản lĩnh văn hóa. Ngày 24/4/1962, bọn địch xúi linh mục và 150 giáo dân di cư bờ nam tổ chức mít tinh phản đối chế độ miền Bắc, lập tức bị các chiến sĩ ta vạch mặt bằng những lời rất thuyết phục, buộc đám biểu tình phải giải tán. Ngày 28/4/1962, địch cho xe quay phim, chụp ảnh miền Bắc. Hai chiến sĩ công an Dưỡng và Trọng đang trực ban ở đồn Cát Sơn đã kiên quyết buộc bọn chúng phải rời khỏi đồn. Lối sống văn hóa và lòng nhân ái của chiến sĩ ta đã thức tỉnh nhiều tên sĩ quan và binh lính công an địch. Tháng 7-1959, hai cảnh sát đồn Cát Sơn qua đò đổi gác, thuyền bị gió lật chìm. Cảnh sát bờ Nam đứng nhìn đồng đội mình bị nạn mà không cứu, cảnh sát đồn Cửa Tùng ở bờ Bắc đã nhanh chống lao xuống sông cứu sống hai cảnh sát ngụy. Hành động đó đã cảm hóa một số cảnh sát ngụy, làm phân hóa đội ngũ của chúng. Bởi thế mà 2 đồn cảnh sát ngụy phía Nam thường xuyên thay đổi quân để đối phó. Nhờ đó, các chiến sĩ công an ta xây dựng được nhiều cơ sở nội tuyến trong lòng địch. Đồn Công an Hiền Lương đã tiếp đón 900 đoàn khách quốc tế, 1300 đoàn khách trong nước. Các đồng chí Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Trường Chính, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đã đến đồn thăm hỏi, động viên cán bộ chiến sĩ  làm nhiệm vụ bảo vệ giới tuyến.

Vào lúc 23 giờ ngày 25-10-1965, máy bay Mỹ đã ném bom đồn Hiền Lương, làm tê liệt hoạt động của hệ thống đồn liên hợp hai bờ sông Bến Hải. Nhưng đồn Hiền Lương vẫn tồn tại. Ngày 15-8-1968, Đồn bị máy bay Mỹ ném bom san bằng. Từ đó để làm nhiệm vụ bảo vệ cờ kéo cờ và bảo vệ cầu, các chiến sĩ công an Hiến Lương đã đào hai chiếc Hầm chữ A để bám trụ, chiến đấu. Hai chiếc hầm này tồn tại cho tới năm 1973...

“CUỘC CHIẾN  ÂM THANH”

Sau Hiệp đinh Giơnevơ, nhằm giáo dục, động viên nhân dân đấu tranh thống nhất đất nước, ta đã cho xây dựng một hệ thống loa phóng thanh, phân bố thành 5 cụm suốt chiều dài 1500 mét ở bờ bắc. Mỗi cụm 24 loa loại 25 W chĩa về bờ nam. Mỗi ngày 24/24 giờ, hệ thống loa này phát đi chương trình của Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền Thanh Vĩnh Linh, chương trình ca nhạc, ngâm thơ, nói vè, kịch, dân ca, chương trình của Đội truyền thanh lưu động... rất hấp dẫn. Ai đã từng sống ở đôi bờ Bến Hải những năm 1954- 1964 hẳn còn vang vọng trong ký ức giọng ca Huế và dân ca Trị Thiên, giọng ngâm thơ ngọt ngào của nghệ sĩ Châu Loan. Châu Loan là người sinh ra bên sông Bến Hải, nên mỗi lần chị hát trên đài, bà con hai bờ đều ra bờ sông ngồi nghe chăm chú! 

Tức tối, mấy tuần sau,  Mỹ- Diệm liền gắn ở bờ nam những cụm loa do Tây Đức, Úc sản xuất có công suất lớn, phát inh ỏi ,lấn át cả loa phát của ta. Hơn nữa hệ loa phóng thanh của ta công suất nhỏ, không phát đến được Cửa Việt, Chợ Cầu...Thế là Trung ương cấp thêm 8 loa công suất gấp đôi (50W) và một loa công suất 250W để tăng giọng phát âm. Nhờ đó, mỗi lần địch lên giọng tâm lý chiến, hệ thống loa bờ bắc vang lên, át hẳn tiếng nói của chúng!

Địch tức tối, đầu năm 1960, một giàn loa Mỹ với công suất lớn được đưa đến bờ nam.  Bọn chúng huyênh hoang: “Hệ thống loa “nói vỡ kính” này sẽ vang xa tận Quảng Bình, dân bờ bắc được nghe rõ tiếng nói của chính nghĩa quốc gia...”. Ta không chịu thua. Năm ấy, một chiếc loa có đường kính vành loa 1,7 mét, công suất 500W xuất hiện. Bổ sung thêm còn có 20 loa loại 50 W, 4 loa loại 250 W. Để cung cấp điện cho hệ thống loa có tổng công suất 18.000 W này, ta đã dựng một đường dây cao thế 6 KVA dài 4 km kéo từ Vĩnh Sơn về đến Tùng Luật và một trạm cao tần đặt cách cầu Hiền Lương 2,5 km về phía bắc để tăng âm cho hệ thống loa. Các cụm loa được đặt trên trụ bê tông cốt thép kiên cố. Riêng chiếc “loa đại” 500 W đặt trên xe lưu động. Khi thuận gió, tiếng loa có thể truyền xa 10 km, đến tận Chợ Cầu, Cửa Việt, Gio An. Đồng bào các làng xã bờ nam vô cùng sung sướng vì hàng ngày họ được nghe rất rõ tiếng nói thân thuộc của miền Bắc ruột thịt!

Để “ đấu khẩu”, Mỹ- Diệm đã tung ra Bến Hải những tên tâm lý chiến nguy hiểm. Mỗi ngày chúng nói từ 14 đến 15 tiếng đồng hồ, một hai giờ sáng đã mở hết công suất loa. Toàn nói những điều bậy bạ, xuyên tạc lịch sử, ca ngợi “Ngô tổng thống là người thương dân, yêu nước...”.Trong khi trên các cánh đồng Vĩnh Linh máy cày, máy bơm đang hoạt động thì chúng lại lu loa: “Việt Cộng bắt người kéo cày thay trâu...!”. Tên “tâm lý chiến” lè nhè hàng đêm đó tên là Phương. Vào một đêm năm 1963, 4 chiến sĩ công an ta đã bí mật vượt sông, được bà con bờ Nam chỉ đường, giết tên Phương ngay lúc nó đang gào trên loa phát thanh. Bà con hai bờ hả lòng hả dạ  bởi họ từ nay không bị đánh thức lúc nửa đêm, không phải nghe những lời bỉ ổi, dối trá nữa!

Đến năm 1965, khi Mỹ ném bom miền Bắc, hệ thống loa phóng thanh của cả hai bờ hoàn toàn ngưng hoạt động...

CUỘC “CHỌI CỜ” BÊN SÔNG BẾN HẢI

“Chọi cờ” là cuộc chiến một mất một còn diễn ra  trong suốt 14 năm ròng.
Ngày 10-8-1954, Đồn Hiền Lương dựng cột cờ bằng cây phi lao cao 12 mét, với khổ cờ 3,2 m x 4,8 m (15,36 m2). Bọn Pháp  liền cắm cờ tam tài của chúng lên nóc lô cốt Xuân Hòa phía Nam cầu , cao 15 mét. Bà con hai bờ yêu cầu : Cờ ta nhất định phải cao hơn cờ địch ! Thế là các chiến sĩ lại lặn lội lên rừng  tìm được cây gỗ cao 18 mét về làm cột cờ. Trên đỉnh cột treo lá cờ 24 m2. Chỉ mấy tháng sau, Ngô Đình Diệm cho xây dựng cột cờ bằng xi măng cốt thép cao 30 mét với lá cờ 3 sọc lớn, có đèn nê ông nhấp nháy đủ màu như thách đố. Sau khi dựng cờ, loa phóng thanh địch rêu rao: “Tổng thống Việt Nam Cộng hòa cho dựng cột cờ cao 30 mét ở Vĩ tuyến 17 để dân chúng Bắc Việt thấy rõ chánh nghĩa quốc gia”.

Không chịu  thua, tháng 7- 1957, các chiến sĩ công an Hiền Lương đã dựng một cột cờ bằng thép ống cao 34,5 mét với lá cờ rộng 108 m2. Trên đỉnh cột cờ có gắn một ngôi sao bằng đồng có đường kính 1,2 mét. 5 đỉnh ngôi sao gắn một chùm 15 bóng điện loại 500 W. Khi lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên cao vút, đồng bào hai bờ bắc ôm nhau reo mừng .Ngắm lá cờ Tổ quốc bay cao lộng lộng, ai cũng chảy nước mắt! Mỹ- Ngụy hoàn toàn bất ngờ trước sự kiện này. Chúng vội vàng tôn cột cờ của chúng lên 35 mét, và lên giọng mỉa mai: “Bắc Việt muốn chọi cờ, nhưng chọi sao nổi quốc gia!”.

Đáp lại lòng mong mỏi của đồng bào, năm 1962, Chính phủ đã điều một đơn vị xây dựng chở vật liệu từ Hà Nội vào xây cột cờ cao 38,6 mét, kéo lên lá cờ 134 m2, nặng 15 kg. Cách đỉnh cột cờ 10 mét có một ca-bin để chiến sĩ ta đứng thu và treo cờ. Đây là cột cờ cao nhất giới tuyến! Lá cờ đỏ sao vàng bay cao là niềm tin, là ngôi sao Bắc Đẩu của bà con bờ Nam, là niềm kiêu hãnh và biểu tượng sức mạnh của bà con bờ Bắc. Nhân dân tận vùng Cửa Việt, Chợ Cầu, Gio An... ở xa hàng chục cây số vẫn nhìn thấy rõ lá cờ Tổ Quốc đang vẫy gọi. Hiểu tấm lòng bà con hai bờ, các chiến sĩ công an đồn Hiền Lương hàng ngày kéo cờ lên sớm hơn và hạ cờ muộn hơn (6 h30 đến 18h30) để bà con thêm thời gian ngắm cờ ! Ngày lễ, Tết, cờ ta bay trên đỉnh cột suốt ngày đêm!

Từ năm 1954 đến 10-1967, công an Hiền Lương đã  dùng hết 267 lá cờ các cỡ. Năm 1967, cột cờ 38,6 mét bị bom Mỹ đánh gãy, các chiến sĩ công an đã thêm 11 lần dựng lại cột cờ bằng gỗ cao từ 12 đến 18 mét, 42 lần thay lá cờ. Từ đây cuộc chiến “chọi cờ” đến hồi  đẫm máu. Cột cờ Hiền Lương là mục tiêu đánh phá trước tiên của máy bay, tàu chiến Mỹ. Ngày 8-1-1965, Nguyễn Cao Kỳ lái chiếc may bay AD6 bắn phá cột cờ, nhưng bị pháo cao xạ Vĩnh Linh bắn bị thương suýt toi mạng. Ngày 17/8/1965, một tốp “thần sấm” Mỹ  lao xuống ném bom cột cờ. Mảnh bom bắn vào cột cờ chan chát, khói bụi mù mịt. Nhưng cột cờ vẫn đứng vững. Tức tối, máy bay Mỹ lại nhào xuống thấp hơn, nhưng bị các chiến sĩ bảo vệ cờ bắn trả quyết liệt. Bọn giặc lái hốt hoảng vãi bom trúng đồn cảnh sát ngụy bờ Nam làm 87 tên chết và bị thương, trong đó có tên đồn trưởng!

Ngày 2/8/1967, địch lại tập trung nhiều tốp máy bay thay nhau ném bom một ngày liền, làm cho Cầu Hiền Lương bị sập và cột cờ ta bị gãy. Ngay đêm đó, bằng một cột điện chắp thêm cây gỗ, một cột cờ mới lại được dựng lên, làm nức lòng đồng bào hai bờ sông. Cũng ngay trong đêm đó, các chiến sĩ đặc công của ta đã vượt tuyến, dùng bộc phá đánh sập cột cờ bờ Nam, chấm dứt vĩnh viễn lá cờ ba que của Ngụy Sài Gòn trên bầu trời giới tuyến!

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ lá cờ Tổ Quốc ở đầu cầu giới tuyến13 đồng chí công an và dân quân đã hy sinh, 8 đồng chí bị thương. Người dân Vĩnh Linh còn nhắc mãi tấm gương mẹ Nguyễn Thị Diệm, anh Nguyễn Đức Lãng... những người may cờ, vá cờ trong bom đạm. Bác Nguyễn Đức Lãng, người chiến sĩ quân đội trong nhiều năm liên tục đã ra Hà Nội nhận cờ. Từ khi Mỹ ném bom miền Bắc, đi lại khó khăn, Bộ tư lệnh cấp cho Vĩnh Linh tiền tự mua vải may cờ. Thế là anh Lãng thành thợ may cờ. Mỗi tháng anh may bình quân một lá. Mỗi năm anh may từ 14- 16 lá cờ, rộng hàng trăm mét vuông, nặng 15 ký. Mỗi lá cờ may hết 122 mét vải đỏ, 12 mét vải vàng. Mỗi đường may phải may ba bốn đường chỉ cờ mới chịu được sức gió. Khi máy bay địch đánh rát quá, cờ bị rách, mẹ Nguyễn Thị Diệm trong mấy năm trời, với cây kim ,sợi chỉ đã bao lần giữa mưa bom bão đạn, sau mỗi trận đánh, mẹ đến ngay chân cột cờ để  vá lành lá cờ Tổ Quốc. Nhiều lúc bom đánh dữ quá, vá không kịp, mẹ lại chong đèn thức thâu đêm trong hầm để vá. Không đủ vải vá cờ, mẹ  động viên các em học sinh quyên góp khăn quàng đỏ để làm vải vá cờ...

Ôi, những chiến sĩ và những người dân đã sống chết vì lá cờ Tổ Quốc nơi đầu cầu giới tuyến. Họ đã thể hiện bản lĩnh văn hóa cao cường và đức hy sinh lẫm liệt...

N.M     
(190/12-04)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN QUANG HÀHầu như mỗi chúng ta chỉ biết Mai Xuân Hòa là nhạc sĩ. Anh đã ra mắt hai tập nhạc viết cho người lớn: "Nỗi đợi chờ", "Khát vọng",và hai tập cho thiếu nhi: " Những điều em thích", " Những ngôi sao đẹp".

  • PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

  • HÀ KHÁNH LINH            Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ                                        Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!

  • TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

  • PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước  vào đời.

  • NGUYỄN VĂN VINH                         Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.

  • TRẦN HOÀI                  Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...

  • LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.

  • NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.

  • TỐ HỮU        Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời

  • VÕ MẠNH LẬP            Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                         Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.

  • NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.

  • TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.

  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.