Còn đây một đoá Trà My

10:10 17/03/2009
NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

Dường như ai rồi cũng ít nhất một lần trong đời tìm đến với thi ca. Có người đến rồi ở lại đó mãi mãi. Có người đến rồi đi như cơn gió thoảng, chỉ để lại những dấu chân xanh hoài trên đám cỏ thơm. Suốt một đời làm công tác quản lý văn hóa, bỗng có ngày Nguyễn Xuân Hoa cho ra mắt bạn đọc tập thơ đầu tay “Trà My”. Thực ra “đầu tay” cũng chỉ là một cách nói, và phàm những người yêu thơ vẫn thường làm thơ tự thuở nào không còn nhớ, và anh đã làm thơ khi không thể không làm. Lời trích đầu tập thơ, Nguyễn Xuân Hoa đưa nguyên ý Khổng Tử “Thi dã tâm chi thanh dã”, là lời tự bạch trọn nghĩa nhất một tất lòng tìm đến với thi ca.
Cũng đã lâu lắm mới gặp lại hơi hướm trí tuệ của những vần thơ siêu thực. Thơ như cái màu trắng trong suốt không lời và như hơi thở rất nhẹ và sâu :
            Thèm đặt một nụ hôn lên bờ tóc hoang phế
            Cầm tay thành phố buồn đi trong mưa.
                                                (Cảm nhận Huế)

Có lẽ phải sống thật nhiều, thật kỹ, thật hoang vắng mới có thể chạm đến cõi siêu thực hồn hoang như vậy. Đó là hiện thân của một tình yêu xao xuyến trong đổ nát. Chỉ còn lại đau đáu một niềm nuối tiếc khôn nguôi. Không có trăn trở, chiêm nghiệm, không có nhận thức như lột trần chiếc áo cũ đang mặc thì sẽ không có thơ. Vì vậy mà triết lý về đời sống vẫn là một sự lựa chọn khả thủ của nhiều người làm thơ. Từ sự trải nghiệm đến tận cùng cuộc đời, anh viết :
            Sự nghiệt ngã của cuộc đời như hoa hồng
            Đẹp và có gai
            Làm sinh sôi mọi niềm hạnh phúc
            Làm đau một đời người.
                                                (Sự nghiệt ngã của cuộc đời)
Câu thơ không buồn, không vui, thiệt trầm tĩnh mà sao ứ đầy một dư vị xót xa. “Đẹp và có gai”, đời là vậy... Có cái đẹp nào mà không tất yếu sinh thành từ cay đắng. Nguyễn Xuân Hoa đã lãnh hội đời sống từ chân giá trị khổ đau. Đó cũng là một nhân thế xót xa buồn vui, những số phận và những cảnh đời :
            Tạ từ một cuộc rong chơi
            Dăm ba bạn cũ
            Bên trời ngả nghiêng
            Có thằng ngất ngưỡng như tiên
            Có thằng nửa dại, nửa điên với đời.
Và trong sự chiêm nghiệm sáng suốt ấy đã có lúc Nguyễn Xuân Hoa cảm thấy mỏi gối chồn chân, một nỗi mệt mỏi cứ loang dần như một vệt dầu sôi ở đâu đó giữa tâm hồn :
            Đời cũng chật không hơn bàn tiệc
            Loanh quanh hoài ly cốc cứ chạm nhau.
                                                            (Đêm rượu nguyên tiêu)

Có lẽ là vì tất cả nguyên cớ ấy, mà Nguyễn Xuân Hoa đã tìm đến thơ ca, anh giải bày, bộc lộ và chia xẻ với mình, chia xẻ với tha nhân. Ẩn hiện giữa vô thường, những câu thơ như men rượu gạo nồng nàn mùi hương lúa những cánh đồng xa :
            Đôi khi thơ như trái đắng
            Vô tình rụng xuống đời ta
            Buồn như một thời xa vắng
            Mẹ ngồi với khúc bi ca.
Như con suối nhỏ chảy giữa đôi bờ suy tưởng, những bài thơ tình trong tập “Trà My” thật đẹp và buồn. Dường như không có hạnh phúc nào là không có nước mắt. Và Nguyễn Xuân Hoa đã tự nói với mình :
            Mê hoặc đời tôi bằng chiếc bùa hạnh phúc
            Em đóng giữa tim tôi
            Vòng kim cô nước mắt.

Hình ảnh “vòng kim cô nước mắt” là một sáng tạo riêng của Nguyễn Xuân Hoa khi anh khái quát và qui nạp nỗi đau tình yêu bằng một ước lệ gần gũi. Dường như đề tài tình yêu vẫn còn để mở ở “Trà My”, tác giả muốn nói vào một dịp khác, ở một tập thơ khác. Và chơi chơi thật thật anh đùa :
            Thơ làm cho vợ đọc chơi
            Cũng nghe thấm nỗi đau đời của thơ.
Người đọc nhận thấy có một hơi thở nhẹ thoảng qua suốt tập thơ “Trà My”, hơi thở ấy như cố nén lại một gấp gáp, để chu tròn một sự bình thản hồn nhiên. Những lúc ấy, thơ anh thật đẹp và hiền. Tôi thích những câu thơ lành lẻ như thiên nhiên này: “Bình yên một ngày nắng mới/Hồn nhiên chim hót rất hiền/Chập chùng xe về cuối phố/Chở cả nắng vàng tháng giêng”.

Có lẽ cũng cần nói thêm một chút về nghệ thuật. Dù là làm thơ tự do hay lục bát, tập “Trà My” là một phức hợp đa giọng điệu. Trong khi thơ tự do anh làm rất giàu chất siêu thực (bờ tóc hoang phế, hất ngược bờ tóc về đêm trước...) thì ở thể thơ lục bát vốn khó làm gần đây, vẫn có những nét duyên mới dân gian (Ta ngồi giữa cuộc chơi vơi/ Nửa miền tiên cảnh, nửa đời rất đau...).
Đọc suốt một lượt tập thơ, rồi đọc lại những câu thơ mình yêu thích, tôi hình dung trong đêm tối lặng lẽ những cánh hoa trà my khép hờ. Người thi sĩ lặng lẽ bên hoa, mang trong trái tim vòng kim cô nước mắt và viết lên giấy trắng u hoài tên của một loài hoa...
Huế, ngày 31 tháng 3 năm 2005
N.X.H
(197/07-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.