VÕ NGỌC LAN
Đi trong thành phố xanh này, ở đâu cũng thấy một màu xanh dịu mát. Có lẽ nhờ thế mà mưa nắng cứ đến rồi đi, cỏ hoa cứ bốn mùa làm xanh thêm cuộc hành trình mưa nắng.
Ảnh: internet
Huế đang bắt đầu vào Hạ, đã nghe nhiều tiếng ve râm ran. Không biết ve ở đâu về mà trưa nào cũng tấu lên khúc nhạc bất tử, khiến bao người đi đường ngước mắt lên hàng cây. Trong vòm lá xanh ấy, điệu nhạc ve sầu rộn rã với loài ve trốn mình trong lá xanh non nên chỉ thấy màu cây lá xanh giữa một Huế rất xanh.
Hầu như ai đứng trên cầu Trường Tiền nhìn dòng sông xanh ngắt với màu nước xanh, của bầu trời xanh và của cây cối hai bờ soi bóng đều thấy Huế xanh biêng biếc, long lanh như viên ngọc xanh. Trong tổng thể xanh ấy, không thể không nhắc đến sự góp mặt của thảm cỏ ven sông Hương. Dù nhìn sông Hương ở góc độ nào hay đứng ở vị trí nào thì bờ cỏ non tơ ấy vẫn hiện ra mồn một trước mắt người. Là cỏ dại nhưng thảm cỏ đó mịn màng như đám mạ non, dịu dàng như cô gái đang thơ bởi chất ngọt của nước sông đã làm cho màu xanh đó thêm ngọt ngào. Đúng là dòng sông Hương đã đẹp hẳn lên nhờ bãi cỏ non đó để thêm nét điểm trang dịu dàng cho bên bồi bên lở.
Năm nào cũng vậy, cứ đến mùa Xuân, cỏ trên bãi bồi ven sông Hương lại lên xanh mơn mởn. Màu xanh đó như làm cho dòng sông trong trẻo hơn, xinh đẹp hơn, thêm nét trẻ trung để ai biết sông đã qua bao tuổi. Trong màn sương sớm, màu xanh đó làm dịu mát tâm hồn với nhiều hy vọng. Như ý nghĩ Tố Như viết Kiều ở Huế, phải chăng ông đã từng lấy dòng sông Hương để làm cảm hứng? Khi nhà thơ tài danh ấy viết “Cỏ non xanh...” ít ra ông cũng đã nhiều lần nhìn thấy sông Hương xanh vì màu cỏ non xanh. Buổi chiều về qua cầu Trường Tiền, vệt nắng chiều sắp tắt cũng đủ làm bờ cỏ xanh ánh lên màu xanh ngọc bích. Câu thơ của Nguyễn Du viết về tháng ba nhân Tiết Thanh Minh trong Kiều thêm lần nữa lại rưng rưng cảm xúc:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Không biết vùng cỏ non “Phương thảo liên thiên bích” trong thơ thi hào họ Nguyễn ở đâu, chứ bãi cỏ ven sông Hương xứ Huế đúng là “Phương thảo thê thê Anh vũ châu” (Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi - Thôi Hiệu). Với những người đã quá quen với Huế thì cũng lâu lắm rồi bãi bồi ven sông đã trở thành cái diềm màu xanh ngồ ngộ cho dòng sông. Màu cỏ non như màu mạ non xanh đã là một gam màu đẹp cho bức tranh bầu trời, sông nước xứ Huế. Đứng ở bất cứ nơi nào của dòng sông, dù bên tê hay bên nớ, đều thấy những diềm cỏ non xanh nhẹ nhàng, dịu dàng như cô gái Huế. Nếu sông Hương thiếu đi bãi cỏ non ấy, hẳn dòng sông sẽ thiếu đi chút điểm trang thơ mộng và Huế sẽ thiếu đi tấm thảm cho hoa rơi để mùi thơm của hoa làm sao thơm được cho dòng sông!
Lâu lắm rồi người ta đã quen nhìn màu xanh của đám cỏ non ven sông. Vạt cỏ mơn mởn tràn đầy sinh lực ấy sống bên dòng sông Hương suốt hai mùa mưa nắng. Mỗi ngày cỏ lại xanh hơn như níu giữ đám lục bình thôi đừng trôi về phía hạ lưu. Ở đó đám trẻ tha hồ đuổi bắt hay thả diều để cánh diều được lên cao và làm duyên với dòng sông. Thỉnh thoảng lại có cặp tình nhân ngồi trên bãi cỏ say sưa ngắm cầu Trường Tiền hay nhìn sang phố xá bên kia. Người ta bảo Huế có nhiều người làm thơ, thi nhân nổi tiếng đều có thơ về Huế quả thật không sai. Chẳng biết bãi cỏ ven sông này đã bao lần tạo thi hứng cho tao nhân mặc khách. Nếu đi dọc dòng sông xuôi ngược hai đầu, điểm nào trên sông cũng xanh, tạo nên một thành phố xanh đến mức tuyệt vời. Cỏ ở đây như được nuôi dưỡng bởi phù sa của dòng sông nên có màu xanh ngút ngàn, làm dày thêm màu xanh của Huế. Trong nắng gió mênh mang ấy, Huế được ru bởi những lời ca của cây lá cùng với lời thì thầm của dòng sông thơ. Những cơn mưa mùa Hạ kéo qua, cây cối lại xanh hơn. Khi mặt trời ló dạng, hình như có ai đó trên trời đã làm rơi hàng ngàn viên ngọc trên bãi cỏ xanh nên Huế lung linh hơn và màu xanh đó càng thêm lộng lẫy. Mùa mưa, dòng sông chìm trong mênh mông nước, chỉ thấy màu xanh mờ nhạt rồi nước dâng cao, thay thế là những đám lục bình trôi dạt. Không ai biết loài cỏ non đó ở đâu? Khi nước rút, cỏ biến mất dưới lớp phù sa dày lớn. Những hàng cây rũ bóng như tìm xem dưới mông lung của đám bùn bí ẩn kia đâu là loài cỏ dại.
Lớp phù sa trên sông được bồi thêm mỗi ngày như có người miệt mài cho nó thoai thoải láng mịn. Năm nào cũng vậy, sau đợt mưa rét kéo dài, hình như trời đã kịp gieo trên bãi bồi những hạt giống mới. Rồi để một sớm mai người ta thấy ở đó phủ một màu xanh mới khi những cọng cỏ non tinh khôi bắt đầu vươn lên. Cái màu xanh mới nhú mầm từ lớp bùn đen ấy thật đẹp, gây ngạc nhiên thích thú cho người ngang qua. Trong bức tranh màu xanh đó, đẹp nhất vẫn là bãi cỏ bắt đầu từ chân cầu Trường Tiền kéo dài đến cầu Phú Xuân. Đã có người bảo nhìn đám cỏ mịn ấy như chiếc gối nhung, cứ ao ước được gối đầu lên đó mà ngủ. Thì có ở đâu một dòng nước xanh - bãi cỏ xanh - hàng cây xanh và thêm một bầu trời xanh đầy thi vị như thế? Có được cảm xúc đó cũng dễ hiểu bởi khi chạm đến cái đẹp hầu như ai cũng có chút lâng lâng. Cứ trải mắt nhìn cỏ hồn nhiên chen chân, lạ thay như có người chăm sóc, như giữ cho nơi này cái đẹp hồn nhiên lạ lùng. Cỏ dại khờ như đời sống trinh bạch vốn có. Nơi đây cỏ với cuộc sống của chúng đã có thế giới riêng đầy mơ mộng bởi nơi ấy dù có người dẫm chân đến thì chẳng ai làm đau chúng. Bởi vậy khi thấy nhiều du khách đứng ở chân cầu, đặt góc máy thật thấp để thu chút hình ảnh đó vào ống kính, mới thấy cái đẹp thật giản dị. Tự thân cỏ dại với đời sống riêng của mình đã không làm ai lãng quên. Thích nhất là trên bãi cỏ non ấy mỗi sớm mai lại đầy nhiều sắc hoa vàng rơi rụng, màu của hoa điệp, hoa tràm mọc ven sông. Nếu trong Kiều, làm đẹp cho màu xanh là màu trắng của hoa lê, còn bên dòng Hương này vẫn có hoa của bốn mùa cho cỏ dại đẹp hơn. Hãy bắt đầu bằng sáng mai nào đó, khi đi qua cầu sẽ thấy bãi cỏ non có rất nhiều hoa rơi. Trước khi hóa thân vào đất, loài hoa đã thêm một lần làm đẹp cho đời nhờ đôi tay nâng niu của cỏ. Đôi lúc lại cứ nghĩ bãi cỏ non ấy là rèm mi non tơ của cô gái mang tên sông Hương. Hình như những điều dòng sông Hương muốn nói đã được góp nhặt nên lời sau những cái chớp mắt của một hàng mi đẹp.
Dù không vời vợi “xanh tận chân trời” thì màu cỏ non xanh đã tô điểm thêm một khoảng trời mộng mơ xứ Huế. Đi giữa vùng đất xanh, chút xanh ấy cũng đủ làm dịu mát đi chút hanh nắng giao mùa. Để vẫn thấy cỏ xanh, với màu cỏ non xanh tận chân trời.
V.N.L
(SDB9/6-13)
PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)
LÊ KHAI Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ. Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.
HÀ KHÁNH LINH Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!
TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.
PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước vào đời.
NGUYỄN VĂN VINH Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.
TRẦN HOÀI Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...
LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.
NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.
TỐ HỮU Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.
NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.
HOÀNG QUỐC HẢI Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.