Có những bài thơ

09:02 17/03/2017

TRẦN VĂN KHÊ
            Hồi ký

Có những bài thơ không bao giờ được in ra thành tập.
Có những bài thơ chỉ còn ghi lại trong trí nhớ của tác giả và của đôi người may mắn đã được đọc qua một đôi lần.

 

Cổng trường Petrus Ký thập niên 1950 với câu đối nêu quan điểm giáo dục của trường lúc ấy: “Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt (phải); Tây Âu khoa học yếu minh tâm (trái)” - Ảnh tư liệu (TTO)

Nếu chỉ là những bài thơ tầm thường thì cứ để mặc chúng nó bị chìm trong quên lãng.
Nhưng thật ra, có những bài thơ rất hay, nếu được dịp ra mắt người đọc, thì cũng có thể đánh dấu một thời đại, hay ít ra cũng đem chút tươi mát cho người đời.
Đôi khi trà dư tửu hậu, tôi đọc lại cho bạn bè nghe mấy bài, mà theo ý tôi không kém gì những bài "thơ mới" của Xuân Diệu và Huy Cận thời đó, ai cũng ngạc nhiên và hỏi tôi làm sao có được những bài thơ ấy.
Làm sao? Những vần thơ đẹp đó chỉ còn trong trí nhớ của tôi và có lẽ của vài người bạn tôi, cựu học sinh trường Trung học Trương Vĩnh Ký, không chép ra, thì ít lâu, khi chúng tôi trở về với cát bụi, những bài thơ ấy sẽ không còn ai nhắc đến nữa.
Mà chép ra, liệu tác giả mấy bài thơ ấy có bằng lòng chăng? Vì vậy, mặc dầu ngày nay, tình cờ tôi đã gặp được tác giả tại Hà Nội cách đây khoảng 10 năm, biết rõ tác giả là ai, tôi cũng không đề tên tác giả, mà chỉ nhắc tới một nữ sinh trường Đồng Khánh (Huế).



***

Trên sân cỏ, phía nội trú của trường Trung học Trương Vĩnh Ký, mỗi buổi chiều sau 6 giờ, các lớp học đã tan, học sinh tụ năm tụ bảy ngồi nói chuyện khào, hay ôn bài học. Có nhóm đánh cờ tướng, nhóm đàn mandoline những bản của Tino Rossi thường hát. Học sinh "đệ tứ" năm 1938, bu xung quanh anh T.V.Đ., vì anh mới nhận được "tin nhạn" từ Huế gởi vào.

Anh Đ. là người chấp bút để trả lời thư của một nữ sinh trường Đồng Khánh, khi nhận được một bài thơ là anh phải "đáp lễ" một bài thơ. Nhưng thưởng thức thơ thì không phải một mình anh mà gần cả chục cậu.

- Mau đi Đ. ơi! Đọc gì lâu quá vậy? Có thơ không? Miệng cười mà không đọc thì cũng như không.

- Mấy cha nóng quá sao được. Thơ hay phải đọc chầm chậm chớ.

- Thì đọc lớn lên cho mọi người được nghe đi!

- Thơ như vầy, thì chết thiên hạ hết. Anh Đ. vừa nói vừa lắc đầu.

- Có chết thì cho chết mau đi!...

- Trời ơi! Tả trăng như vầy làm sao chịu nổi?

Mọi người đều im lặng. Nín thở. Anh Đ. thong thả đọc từng câu:


TRĂNG

Trăng đẹp quá! Trăng ơi! và nhiều quá
Vàng mênh mông chảy tận bến bờ êm
Và trên sông dệt muôn sợi tơ mềm
Và rót tận trong hồn tôi. Sáng quá!

Tôi run rẩy ghé hôn Trăng nơi sóng
Trăng say sưa và ngọt tựa môi chàng
Và trong mơ tôi ghen với sông vàng
Vì tôi giận Trăng cho sông nhiều quá.

Tôi năn nỉ van Trăng đừng đi nữa
Bên lòng tôi ở mãi như mơ êm
Chìm đi đâu? Và sao lại phải chìm?
Đừng Trăng nhỉ! Ở bên tôi mãi mãi!

Tôi vẫn biết đêm mai Trăng sẽ đợi
Nhưng chắc đâu còn nửa ánh trăng nầy.
Và tôi đâu còn ở giữa niềm ngây
Nên tôi thấy Trăng chìm tôi sợ quá!

            Trích trong tập "Lòng Anh, Lòng Em"(1938)

Mọi người xuýt xoa, lắc đầu. "Hết chỗ nói! Nghe như thơ Xuân Diệu". Lúc ấy là thời kỳ tập "Thơ, Thơ..." của Xuân Diệu mới ra đời... Cô nữ sinh trường Đồng Khánh năm ấy mới vừa được 17 tuổi đầu và có lẽ mới "làm quen" với thơ Xuân Diệu. Nhưng ý thơ lạ, mới và bạo đối với một thiếu nữ đất Thần Kinh. Lời thơ mát, ngọt, dịu dàng, và đầy nhạc! Mới, thơ rất mới lúc bấy giờ!

Từ hôm ấy, các cậu học sinh đệ tứ "Trường Ông Ký" đợi thư, tuy gởi riêng cho anh Đ. mà ai cũng trông, cũng chờ. Và lần lượt suốt năm học, nhiều bài thơ khác, đem đến cho tuổi trẻ chúng tôi một chút gì dìu dịu, là lạ, khoan khoái trong tâm hồn sau khi đọc những bài thơ của cô nữ sinh trường Đồng Khánh, như gặp luồng gió mát, trong một buổi trưa hè.

Chúng tôi đúng thật là "ghiền" thơ của cô nữ sinh trường Đồng Khánh, xứ Thần Kinh rồi! Riêng tôi, thì nhờ có trí nhớ tốt, nên sau khi nghe xong, đọc đi đọc lại vài lần là tôi thuộc lòng, và từ đó đến bây giờ, tuy đã quên đi một ít, cũng vẫn còn nhớ mấy bài.

Bài "Trăng" vừa rồi là của "lòng Em". Nhưng cũng có nhiều bài nói lên "lòng Anh". Như bài "E ngại" là một.


E NGẠI

Tôi muốn nói, muốn cùng em kể hết
Những nỗi niềm u ẩn trong tim tôi
Bao phen rồi, tôi vẫn muốn hở môi
Tôi muốn nói, nhưng tôi còn e ngại

Em xa quá tuy gần tôi bên cạnh!
Tôi rụt rè sau quả quyết bao phen
Lúc bên em tôi lo sợ ngập ngừng
Tôi tự biết không bao giờ được nói!

Tôi muốn kể những lời say ân ái
Những niềm yêu còn ước đợi mong chờ
Những nắng vàng tươi đẹp lắng trong mơ
Chưa mở miệng đã rối lòng e ngại

Ta sẽ nói, trăm lần tôi tự bảo
Nhưng trăm lần tôi đã để hôm sau
Mà hôm sau, nghĩa là chẳng khi nào
Và sẽ nói, chỉ lời an ủi hão!


- Nghe có hơi hướng Sonnet d'Arvers quá đi!

"Toujours à ses côtés et pourtant solitaire!"

- Anh chàng nào si tình mà nhát dữ vậy?

- Thôi, nói thì giỏi, chớ gặp cuộc rồi chắc "bồ" có dám tỏ tình không?

Anh chàng thư sinh trong thơ của cô nữ sinh trường Đồng Khánh Huế chẳng những rụt rè mà lại còn kiên tâm, nhẫn nại ít ai bằng. Anh đã chờ, anh đã đợi mà còn hứa sẽ đợi mãi đợi hoài!


ĐỢI

Anh đợi em, tháng ngày trôi lần lựa
Chiều nay qua, anh buồn quá em ơi?
Nắng phai rồi, làn sương xám sắp rơi
Vùng mây trắng ven trời không trôi nữa.

Từng đoàn tang, chim bay nhau về tổ
Hoàng hôn đen xuống chậm trong cành êm
Chuông chùa xa đưa lả lướt trong đêm
Buồn rũ rượi như nghẹn ngào lệ khổ!

Em đã hứa, một chiều em sẽ đến
Đã xa rồi, đã xa lắm, đã xa khơi!
Chiều nay anh còn thấy miệng em cười
Và đôi mắt say sưa như lời hẹn

Từ buổi ấy đã bao chiều anh đợi
Anh vẫn trông, anh vẫn nghĩ luôn rằng
Chắc chiều nay em có chuyện trở ngăn
Em chưa đến, nhưng rồi em sẽ đến!

Mỗi trưa qua, vườn cau cao vươn bóng
Gió hiu hiu chậm lướt trên đồng xa
Tim băn khoăn, rạo rực, thiết tha
Chờ, chờ mãi đến khi hoàng hôn xuống.

Em không đến? Hay không bao giờ đến?
Anh đợi em, đã bao tháng năm rồi
Đã bao chiều! Đã lâu lắm, em ơi!
Em có biết nỗi lòng anh thương mến?

Em sẽ đến. Một ngày em sẽ đến.
Chưa hôm nay, em sẽ đến ngày mai
Nếu mai không đợi mãi đợi hoài
Vì anh biết, một ngày em sẽ đến!
.

Thế rồi chẳng biết em có đến, và chàng có dám tỏ nỗi lòng hay chăng? Chắc là có vì một hôm, anh Đ. nhận được bài thơ "Ly biệt" và từ đó cũng vắng thư của cô nữ sinh trường Đồng Khánh Huế.


LY BIỆT

Sáng hôm ấy, một trời sương phủ lạnh
Chàng giã tôi, lên tỉnh, phút chia phôi
Nắm tay nhau đôi mắt lệ ngậm ngùi
Tôi thấy trước cả những ngày cô quạnh.

Cơn biệt ly, nhìn đường xa bỗng chạnh
Quảng đời qua! Ôi! Chỉ giấc mơ tàn!
Cánh tương lai, mờ mịt tựa thời gian!
Còn hiện tại! Toàn sương mù, giá lạnh!

Chàng buông bàn tay em, mạnh dạn:
Xe đến rồi, em ở lại anh đi
Nước non xa, em chớ đợi buổi về
Ngày trở lại, biết bao giờ mà ước hẹn?

Lòng tê tái, nhìn tàu phi như ngựa
Nhìn đường dài, khuất dạng đám trong sương
Nẻo xa xa em ngoảnh lại bên đường
Còn tưởng thấy tựa gốc tùng chàng đứng dựa!

Đi là hết! Não nùng, ôi! Ly biệt!
Một bước xa là một mảnh lòng rơi!
Nở để tàn, sống để tìm cõi chết!
Khóc than chi? Đấy số phận Hoa, Người
!

Tôi chỉ còn nhớ được nguyên vẹn mấy bài thơ đó. Ghi lại để các bạn đặt lại những bài thơ ấy trong thời điểm năm 1938, nhớ lại cô gái Huế, nữ sinh trường Đồng Khánh, tuổi vừa 17, mà đã gặp mối tình ngang trái, và đã nói lên được những e ngại, đợi chờ, tả được những phút phải chia tay mà chấp nhận rằng đó là số phận của con người bằng những câu thơ tuyệt đẹp!

Tiếc là tôi không nhớ trọn vẹn những bài khác, trong đó cô nữ sinh Đồng Khánh dùng nhiều từ rất lạ, như:

Tôi dương đôi mắt chụp muôn màu

Mắt của cô như ống kính của máy ảnh, chụp được muôn màu! Hay là:

Chiều êm lặng. Mây trôi từng mảnh trắng
Gió ngập ngừng đứng lại giữa không gian!


Gió đứng lại giữa không gian! Như trong bài "Đợi" có câu:

Hoàng hôn đen xuống chậm trong cành êm

Cô có gửi cho anh Đ. một tấm ảnh. Cô không đẹp lộng lẫy. Nhưng có đôi mắt rất to, rất sáng! Rõ ràng là mắt để chụp muôn màu!

Anh Đ. chẳng biết còn nhớ những bài nào khác chăng? Tôi có dịp nói chuyện qua điện thoại với anh, lúc tôi đang dạy học tại Honolulu. Hình như Anh không nhớ bài nào khác hơn những bài tôi vừa ghi lại trên đây mà tôi có ghi âm vào trong một "ca-xết" để nhờ con gái của anh gởi từ Honolulu đến California cho Anh.

Theo lẽ, bài này phải để anh Đ. viết lại. Nhưng thời gian qua, sợ e trí nhớ của tôi có ngày kém đi, mà anh Đ. chẳng biết có thì giờ ghi lại những bài nào anh còn nhớ hay chăng? Viết bài nầy hôm nay, cũng như đốt lại lò hương, nhắc lại chuyện cũ của những cựu học sinh trường Trương Vĩnh Ký, để các bạn "Mua vui cũng được một vài trống canh"

Mùa Xuân năm Canh Ngọ, Paris (Pháp)
T.V.K
(TCSH43/06-1990)

______________              
T.B. Tôi có gặp lại tại Hà Nội năm 1979 cô nữ sinh trường Đồng Khánh năm xưa. Lúc ấy, chị đã có chồng, có con, và không còn đôi mắt to và sáng như thời còn trẻ. Khi đoán được chị là tác giả của những bài thơ tôi còn nhớ, tôi đọc mấy câu, chị ngạc nhiên và hỏi: "Tại sao anh lại thuộc những câu thơ ấy?" Tôi nhắc lại thời còn là học sinh trường Trương Vĩnh Ký. Chị nhớ lại dĩ vãng và mỉm cười. "Hơn 40 năm mà anh còn nhớ những câu thơ ấy à?" Tôi hỏi chị chớ tập "Lòng Anh, Lòng Em" có được in ra bao giờ chưa? Chị lắc đầu.

Hỏi chị chớ sau những bài thơ đó, chị có sáng tác thơ nào khác nữa không! Chị lắc đầu, nét mặt buồn buồn. Tôi để yên cho.

"Quãng đời qua" của chị chìm trong "giấc mơ tàn".

Hơn 20 năm trước, (1957), một hôm, nhớ tập thơ "Lòng Anh, Lòng Em" của cô gái Huế năm 1938, tôi có sáng tác một bài hát cũng đề tựa là "Lòng Anh, Lòng Em", mà cũng là mấy câu thơ. Sẵn dịp, ghi lại cho các bạn có cả thơ, nhạc liên quan đến kỷ niệm của những cựu học sinh trường Trương Vĩnh Ký và các nữ sinh trường Đồng Khánh Huế.





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.

  • TRẦN NGUYÊN

    Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.

  • PHẠM HỮU THU
           Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12

    “Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).