Cô bé bán diêm

15:00 18/02/2021

HANS CHRISTIAN ANDERSON   

Hans Christian Andersen sinh tại Odense, Đan Mạch, thuộc gia đình bình dân, cha là thợ đóng giày, mẹ là thợ giặt. Tuy gia cảnh tầm thường, cha ông lại say mê văn học, ông có cả một tủ sách văn học quý giá. Từ sau khi cha qua đời (năm Andersen 11 tuổi), cậu bé đã được thỏa thích đọc những quyển sách cha để lại.

Cũng nhờ vậy mà trí thông minh và óc tưởng tượng tuyệt vời được biểu lộ ở Andersen từ khá sớm. Ông ham mê đọc những tác phẩm văn học, đặc biệt là các vở kịch của William Shakespeare.

Sau khi cha qua đời, Andersen phải làm đủ nghề để kiếm sống, có thời gian làm diễn viên trong Nhà hát Hoàng gia Đan Mạch. Bị vỡ giọng, ông chọn nghề viết văn để gắn bó suốt đời. Dù ông viết nhiều thể loại như kịch, tiểu thuyết, thi ca, ông được biết nhiều nhất qua các câu chuyện cổ tích dành cho thiếu nhi. Truyện cổ Andersen đã được dịch sang 125 ngôn ngữ, thể hiện những bài học đạo đức và sự bền bỉ kiên cường trước nghịch cảnh. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến người đọc, trẻ em và cả người lớn. Một số câu chuyện nổi tiếng nhất là: “Bộ quần áo mới của hoàng đế”, “Nàng tiên cá”, “Bà cháu tuyết”, “Con vịt xấu xí”...

Nhìn chung, bút pháp của Andersen rất mới mẻ, khác với cách viết truyện cổ tích thông thường. Có truyện kết thúc kiểu có hậu, thể hiện niềm tin vào những điều tốt lành, đẹp đẽ, nhưng cũng có truyện khép lại với nỗi buồn sâu thẳm của những ước mơ không thành hiện thực. Dù ở trường hợp nào, ông cũng bày tỏ sự thông cảm sâu sắc đầy thương cảm cho những số phận không may, bởi chính ông cũng đã trải qua một tuổi thơ nhọc nhằn. Truyện “Cô bé bán diêm” được giới thiệu dưới đây không dài nhưng rất thú vị. Truyện kể hoàn cảnh thương tâm của một em bé nghèo, với chính em là nhân vật duy nhất, không có tên. Ba người khác trong gia đình được nhắc đến một cách gián tiếp... Suốt cả câu chuyện bộc lộ những nét tương phản: một bên là cảnh tối tăm, đói rét, cô đơn, chết chóc ngược với ánh sáng, ấm cúng, thức ăn ngon, niềm hy vọng ở cuộc sống nơi thiên đường.

Mùa xuân năm 1872, Andersen bị té từ trên giường nằm và bị thương nặng, không thể hồi phục. Ông được phát hiện dấu hiệu bệnh ung thư gan và qua đời ba năm sau trong ngôi nhà vợ chồng người bạn thân ở Copenhagen. Ngay sau khi ông qua đời, nhà điêu khắc August Saabye thực hiện một bức tượng lớn để vinh danh ông. Hiện nay tượng được dựng tại “Vườn của Nhà vua” ở Copenhagen.


Thân Trọng Sơn
giới thiệu và dịch


Cô bé bán diêm

Trời lạnh như cắt, tuyết rơi nhiều, không gian đêm cuối năm tối tăm mờ mịt. Trong bóng tối lạnh lẽo đó, một em bé vẫn còn lang thang ngoài đường, đầu trần, chân đất. Thực ra, khi ra khỏi nhà, em có đôi giày vải nhưng có cũng như không, vì giày là của mẹ em, quá rộng cho chân em. Giờ này thì đôi giày đã mất khi em vội qua bên kia đường để tránh một chiếc xe ngựa đang lao tới với tốc độ kinh hoàng.

Một chiếc lạc chỗ nào tìm không ra, chiếc kia bị một thằng nhóc bụi đời chạy tới chộp lấy, hắn nghĩ là rồi sau này khi có con hắn sẽ dùng nó làm chiếc nôi chơi cho con. Do vậy, em đành đi chân đất, đôi chân đỏ ửng rồi tím bầm vì lạnh. Em có mang theo một số bao diêm trong chiếc tạp dề cũ, còn mấy bao khác em cầm trong tay. Chẳng ai mua diêm suốt cả ngày nay, cũng chẳng ai cho em lấy một xu!
 

Minh họa: ĐẶNG MẬU TỰU

Em bước lê trên đường, lạnh và đói đến run lên - đúng là hình ảnh bi thảm, một cô bé tội nghiệp.

Những bông tuyết phủ đầy mái tóc dài, cuộn thành từng búp xinh xắn quanh cổ em; mà thật ra em không hề quan tâm đến nữa. Cửa sổ nhà nhà đều sáng lòa ánh nến, sực nức mùi ngỗng quay hấp dẫn, đêm Giao Thừa mà!

Em ngồi nép vào một góc giữa hai ngôi nhà, nhà này thụt sâu vào hơn nhà kia một chút. Em cố co hai chân sát vào người, nhưng mỗi lúc em càng thấy lạnh hơn. Tuy nhiên, em không dám về nhà, vì em chưa bán được bao diêm nào, không ai bố thí đồng nào. Cha em chắc sẽ đánh em, mà về nhà cũng lạnh như thế này thôi, gió lạnh vẫn lọt qua mái lá, dù các lỗ hổng trống hoác đã được giẻ rách và rơm rạ chèn lại.

Hai bàn tay em gần như lạnh cứng đờ ra. Ôi chao, lúc này thì một que diêm có thể mang đến cho em cả một trời hơi ấm, nếu em liều rút một que diêm ra, quẹt vào tường và hơ những ngón tay vào. Thế là em rút ra một que diêm. “Xoẹt!” Diêm cháy ngay ấm và sáng như một ngọn nến. Em hơ đôi bàn tay vào. Một thứ ánh sáng tuyệt vời! Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi lớn bằng sắt, có chân bằng đồng bóng và những hoa văn cũng bằng đồng bên trên. Ngọn lửa cháy ấm áp vô cùng, thật là hạnh phúc. Cô bé định duỗi chân ra cùng sưởi luôn thì ngọn lửa đã tắt ngấm, lò sưởi biến mất, chỉ còn trên tay em que diêm đã tàn!

Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy sáng rực lên, chiếu vào bức tường. Bức tường biến thành một tấm rèm bằng vải thưa, cho em nhìn thấu tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải trắng tinh, trên đó bày toàn bát dĩa bằng sành sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay, nhồi đầy táo và mận khô, còn bốc khói ngon lành.

Nhưng điều lớn nhất cần chú ý là con ngỗng đó nhảy phốc ra khỏi dĩa, lăn quay trên sàn, trên ngực còn cắm cả dao và nĩa, tiến về phía em, bất chợt cây diêm vụt tắt, trước mặt em chỉ còn những bức tường dày đặc, lạnh lẽo và ẩm ướt. Em lại quẹt một que diêm khác. Lúc này, em đang ngồi dưới gốc một cây thông Giáng Sinh. Cây này lớn hơn, trang hoàng lộng lẫy hơn cây Giáng Sinh mà trước đây em đã thấy qua ô cửa kính nhà một thương gia giàu có.

Hàng ngàn ngọn nến sáng rực trên cành lá xanh tươi, và những bức tranh nhiều màu, giống như em đã nhìn thấy trong các tủ hàng, đang nhìn xuống em. Cô bé tội nghiệp dang tay ra về phía cây Giáng Sinh. Những ngọn đèn trên cây vươn cao lên, cao mãi, em thấy chúng như biến thành những ngôi sao trên thiên đàng và một ngôi sao rơi xuống làm thành một vệt lửa sáng ngời.

“Có lẽ ai đó vừa qua đời!”, em nghĩ, vì bà của em, người duy nhất trên đời thương yêu em, đã từng nói khi một ngôi sao rơi xuống là một linh hồn bay lên trời với Thượng Đế.

Em lại quẹt một que diêm nữa vào tường: ánh sáng lại tỏa ra, em thấy bóng dáng già nua của bà mình, rạng rỡ, huy hoàng, hiền dịu, nét mặt chan chứa yêu thương.

“Bà ơi, em bé kêu lên, cho cháu đi với bà. Rồi diêm tắt bà cũng ra đi, bà sẽ biến mất với cái lò sưởi ấm áp, với con ngỗng quay, và cây Giáng Sinh rực rỡ hồi nãy. Thế rồi em vội vã quẹt hết cả những que diêm còn lại trong bao, vì muốn níu kéo người bà ở lại. Những que diêm nối tiếp nhau sáng lên như giữa ban ngày: chưa bao giờ em thấy bà đẹp đẽ, cao lớn như thế này. Bà đưa tay ôm lấy em và cả hai cùng bay vút lên cao trong ánh sáng và niềm vui, lên cao, cao mãi, đến một nơi không còn lạnh lẽo, đói khát, lo âu - họ đã về với Thượng Đế.

Rồi hôm sau, ở một góc tường, trong giờ khắc bình minh giá lạnh, em bé tội nghiệp có đôi má ửng hồng, miệng hé mỉm cười, ngồi tựa vào tường, em đã chết vì giá lạnh trong đêm giao thừa!

Em ngồi đó giữa những bao diêm, một bao đã cháy hết. Mọi người bảo nhau: Chắc cô bé muốn sưởi ấm mình đây mà! Không ai nghi ngờ về những điều tốt đẹp như thế nào em đã nhìn thấy. Không ai mơ thấy được khung cảnh huy hoàng tráng lệ như thế nào, lúc hai bà cháu cùng hân hoan rạng rỡ bước vào năm mới.  

------------
Tác phẩm được dịch từ nguyên bản tiếng Anh, tháng 9/2020. Nguồn: https://americanliterature.com).
  


(SHSDB39/12-2020)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.

  • BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.

  • JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).

  • KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...

  • MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.

  • YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.

  • MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!

  • AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.

  • HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.

  • OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979  những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.

  • NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.

  • OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.

  • BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.

  • RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

  • ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.

  • TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết.                                                                                                                 TSCH

  • JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.

  • A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".

  • ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.

  • ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.