Chuyện về ngày 30-4, bây giờ mới kể

16:43 24/02/2009
NGÔ MINHỞ CỬA NGÕ XUÂN LỘCSư Đoàn 7 thuộc Quân Đoàn 4 của chúng tôi hành quân từ Bảo Lộc về ém quân trong một rừng chuối mênh mông, chuẩn bị tấn công cứ điểm Xuân Lộc, cửa ngõ Đông Bắc Sài Gòn, đúng đêm 1-4-1975.

Sư trưởng Nam Phong lệnh không được ai chặt chuối của dân. Rừng chuối Xuân Lộc rộng đến nỗi có đường ô tô ngang dọc để xe ô tô đi thu hoạch. Trong thời gian tấn công Xuân Lộc, anh em “làm báo” của sư đoàn như Phùng Khắc Bắc, tôi, Dương Huy... được điều về hầm chỉ huy Sư đoàn để hàng ngày nghe thông tin từ các mũi. Anh Phùng Khắc Bắc (nhà văn, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1992 với tập thơ “Một chấm xanh”, mất năm 1990) vào B2 từ đầu năm 1967, ở khu 6, rồi miền Đông Nam Bộ. Trông anh gầy và đen như gỗ lũa, chỉ đôi mắt là long lanh sáng. Tính anh hiền hậu, hay cười. Anh làm ở Ban tuyên huấn Sư đoàn, chuyên trách “bản tin”.

Cuối năm 1973, anh Bắc đưa Đoàn văn công Sư Đoàn về biểu diễn tại cứ Đồng Xoài, bên bờ Sông Bé phục vụ tiểu đoàn tôi. Chương trình văn nghệ gồm các tiết mục của Đoàn và các tiết mục chiến sĩ “tự biên”. Thấy trong sổ tay tôi có bài thơ “Bài ca chốt chặn” viết về những ngày thực hiện hiệp định Pari ở đường 14, anh Đại, chính trị viên Đại đội (người Nam Hà, Việt kiều Thái Lan về nước) bắt tôi lên “ngâm” bài thơ. Tôi không ngâm được, mà đọc. Sau khi tôi đọc thơ xong, anh Phùng Khắc Bắc tìm đến, hỏi tôi làm được nhiều thơ không. Anh bảo anh chưa bao giờ làm thơ, chỉ viết ít truyện ký và báo. Sau chuyến ấy anh đề nghị với cấp trên điều tôi lên Ban chính trị để làm bản tin. Đợt đánh Xuân Lộc này, anh em cùng nhau ở một chỗ nên rất vui. Đêm đầu tiên đánh cứ điểm Xuân Lộc, bộ đội ta mấy lần ôm bộc phá vào mở cửa mở, nhưng địch bắn rát quá, thương vong nhiều. Sư trưởng Nam Phong hét vào điện thoại chỉ huy hết mũi tiến công này đến mũi tiến công khác. Ông đang chỉ huy trận đánh mà nói năng rất tếu. Sư trưởng điện cho anh Đình chính trị viên D2: “Cái chốt bằng cái l. trâu ấy mà một ngày rồi các anh không ăn được à? Tôi ra lệnh nội đêm nay phải ăn cho hết cái l. trâu đó, nghe rõ chưa!”. Câu ra lệnh làm nọi người trong hầm chỉ huy ôm bụng mà cười.

Đêm hôm sau, tôi được cử ra chỗ bộ đội tiểu đoàn 2 đang đánh bộc phá mở cửa mở để tấn công một cứ điểm của địch để viết bài. Mật khẩu được phổ biến là “Sông Hồng”, phải trả lời là “Mê Kông”. Tôi đi một mình trong đêm trăng mờ giữa tháng 4. Bốn bề là rừng chuối và trảng cỏ khô! Tôi đang hoang mang tìm hướng đi thì nghe một tiếng quát “Sông Hồng”. Thế là tôi quên béng việc trả lời bằng mật khẩu, mà gọi toáng lên: “Tôi là Khôi ở Ban chính trị đây!”. Anh chiến sĩ đến chỗ tôi, cười bảo, em được lệnh đi đón nhà báo Sư đoàn từ tối tới giờ, đợi mãi. Biết là anh bị lạc đường. Mà sao anh không trả lời bằng mật khẩu? May em là người đi đón, tiểu đoàn cho biết tên anh, nếu không thì “toi” rồi đấy”! Tôi chui vào hầm tiền tiêu của đại đội Bảy. Ba chiến sĩ ôm bộc phá lên đánh hàng rào bị thương, máu chảy nhiều, được băng bó tạm bằng băng cá nhân, đang nằm rên ở góc hầm, đợi cáng về trạm phẩu thuật tiền phương. Mấy anh em khác lại đang cười đùa, hò hét đánh bài “tiến lên”, trông mặt mũi anh nào anh nấy điềm nhiên như chẳng có việc chỉ một vài phút nữa thôi ba người trong số họ lại bò lên hàng rào đánh bộc phá, rồi có thể hy sinh và bị thương như đồng đội đang nằm kia! Ở chiến trường miền Đông ác liệt này, không điềm nhiên như thế không sống mà  đánh giặc được!

Đêm 20 tháng 4, trước sức tấn công của Quân giải phóng, đường vô Sài Gòn bị chặt đứt ở Dầu Giây, sư đoàn 18 Ngụy Sài Gòn bỏ chạy khỏi Xuân Lộc, sư trưởng sư 18 là tướng Lê Minh Đảo chạy về phía Vũng Tàu bị quân giải phóng bắt. Đơn vị tôi hành quân vòng qua thị xã thì đã quá nửa đêm, nên được lệnh nghỉ. Để đảm bảo bí mật, tất cả rờ rẫm mắc võng trong đêm. Nằm lắc lư trên võng, tôi nghe mùi hương quả chín thơm vào trong giấc ngủ. Sáng dậy, trời đất ơi, ngay trên đầu võng tôi, một trái sầu riêng trĩu xuống, thơm lừng. Tôi bật dậy, nâng trái sầu riêng lên mũi. Đó là lúc Nguyễn Văn Thiệu tổng thống ngụy đọc diễn văn từ chức trên đài phát thanh Ngụy Sài Gòn. Thế là ta thắng rồi! Trước mắt tôi, một rừng sầu riêng mênh mông, mùa trái chín thơm lừng. Nghe phía đường lộ, tiếng xe tăng, xe bọc thép và xe chở bộ đội của những binh đoàn quân giải phóng vẫn ì ầm hành quân về hướng Sài Gòn.

Tôi lần ra đường, thấy hai bác nông dân đen nhẻm, vác cuốc, mặc quần xà loỏng, dường như các bác đang trên đường đi làm rẫy. Hai người đứng bên đường đang đếm từng chiếc xe quân giải phóng trùm bạt rầm rầm tiếng về phía Sài Gòn. Thấy tôi mặc quần áo quân giải phóng, các bác hồ hởi khoe: “Xe tăng, xe pháo của ta nhiều đếm hổng xiết chú ơi, tôi đếm được gần một trăm rồi, nghe pháo nổ lại quên mất, lại đếm lại!”. Những ngày đó đơn vị tôi đóng quân ở rừng cao su Xuân Lộc, học chính trị, điều lệnh dân vận mới để chuẩn bị đánh Sài Gòn. Chúng tôi cắt tóc, cạo râu cho nhau. “Trước một trận đánh lớn vào “Cao điểm cuối cùng”, người chiến sĩ phải đàng hoàng. chững chạc”- Sư trưởng Nam Phong nói như vậy!

Sáng 30-4, Sư đoàn 7 của tôi được lệnh xuất kích đánh chiếm Sài Gòn ở hướng Đông -Bắc. Ngồi trên xe tải chở quân tôi thấy, quân ngụy tan tác thành từng mảng, cởi bỏ súng đạn, quân trang, quân dụng vất ngổn ngang dọc đường như rác. Một giờ chiều chúng tôi vào tới Dinh Độc Lập. Sư đoàn 7 được lệnh quân quản Quận Một. Bà con Sài Gòn đứng đông nghịt bên đường, phụ nữ mặc áo dài hoa, cầm cờ đỏ sao vàng vẫy chào. Sài Gòn tháng tư, nắng long lanh như mật, hình như nắng cũng rưng rưng niềm vui Các mẹ, các em Sài Gòn khoác khăn rằn, gánh tới những nồi cháo gà bốc khói thơm lựng. Các mẹ múc từng tô đưa cho chúng tôi, rồi ngồi ngắm chúng tôi ăn, như ngắm đàn con ở nhà. Tôi có cảm giác cháo gà ngon như cháo mẹ tôi nấu khi tôi còn nhỏ! Đó là bữa ăn đầu tiên của tôi trên đất Sài Gòn giải phóng!

IN “BÁO” THỦ CÔNG Ở SÀI GÒN
Sài Gòn 1975, công nghệ in báo đã đạt đến tiến tiến thế giới lúc đó. Nhưng vào Sài Gòn từ 30-4, những người làm báo thủ công chúng tôi vẫn in báo theo cách của mình ở chiến khu. Vì bộ đội giải phóng hành quân nay đây mai đó, nên rất ít được đọc báo miền Bắc gửi vào hay báo xuất bản ở vùng giải phóng, nên đã hàng chục năm nay, nhiệm vụ của Ban chính trị là sau mỗi trận đánh hay một đợt huấn luyện phải ra “bản tin” và các tập sách “chuyên đề” để phát cho bộ đội đọc Bản tin Sư đoàn 7, gọi là “Chiến Thắng”. Tổ “Bản tin BA Vì” chúng tôi có anh Dương Huy người Hà Đông, anh Toan, Minh và tôi là người trẻ nhất. Tham gia viết ở các tiểu đoàn có anh Lê Huy Khanh, Nguyễn Quốc Trung (sau này đều trở thành nhà văn Việt ). Gọi là bản tin, nhưng hình thức và nội dung thì giống như tờ báo vậy. Cũng có tin tức thời sự trong nước, ngoài nước (in theo bản tin đọc chậm của Đài tiếng nói Việt nam), tin bài về gương chiến sĩ dũng cảm, thơ, nhạc, tranh vui... có khi in cả truyện ngắn do Dương Huy viết! “Báo” chúng tôi in khi 4 trang, khi 8 trang, hai màu hẳn hoi! Giấy báo, stelcil, mực in...trước 30-4 thì mua ở Cămpuchia, do anh Trần Hồng Lạc, người Thanh Hóa, trợ lý “quân nhu” của Ban chính trị, tuần nào cũng đạp xe đi chợ Mi Mốt, Krachê (Cămpuchia).

Chuẩn bị chiến dịch Hồ Chí Minh, anh Lạc đi mua rất nhiều các thứ cần thiết để in báo. Từ đầu năm 1975, hành quân hàng trăm cây số theo bộ đội từ Đồng Xoài lên đánh Phước Long, rồi lên Bảo Lộc, rồi quay về đánh Xuân Lộc, chúng tôi đều mang kè kè trên lưng vài chục cân giấy báo; vài trăm tờ Stelcil (giấy nến), mấy lọ mực xanh đỏ, một cái máy chữ và một khuôn in bằng vải lụa, vất vả không khác gì một người dân công hỏa tuyến thồ hàng ra trận! Sau mỗi trận đánh chúng tôi đều ra bản tin, in 500 tờ, phát về mỗi tiểu đội hai tờ. “Công nghệ in” của chúng tôi rất thủ công lạc hậu. Đầu tiên là đánh máy vào giấy stelcil, đánh chia cột theo “mi” báo, có chừa chỗ để in tranh và kẻ tít. Tít báo thì kẻ bằng bút kim. Tất cả trình bày trên tờ giấy nến cỡ 30x40 cm. Khi in, dán tờ giấy nến vào mặt sau khung lụa, đặt giấy báo bên dưới khung in, vặn vít cố định, rồi bắt đầu lấy một cái chổi bằng xơ dừa, quệt mực liên tục. Quệt “nháp” khoảng 20 tờ, thấy đều mực mới in chính thức. Khi in hai màu thì chờ khô màu thứ nhất, lại đưa vào khung in, in màu thứ hai.       

Vào Sài Gòn, việc đầu tiên của “tổ báo” chúng tôi là đi kiếm giấy in báo. Vì hành quân cả mấy tháng trời hết nhẵn. Tôi nghĩ ra cách đến các nhà in của ngụy để lấy giấy in báo. Lúc này ở Sài Gòn đang có phong trào “giúp bộ đội giải phóng”. Ai giúp thì được Sư đoàn cấp một giấy xác nhận thành tích có chữ ký sư trưởng Nam Phong đóng dấu đỏ hẳn hoi. Chúng tôi được phát những tờ khống chỉ như thế để làm quân quản. Tôi ra gọi một chiếc xe lam. Cậu y tá tên Thành, người Thái Bình ở trung đoàn bộ được điều đi giúp tôi lấy giấy in báo. Khi ra đường thấy chiếc xích lô máy chở nước đá cây đang lóng lánh bảy sắc cầu vồng trong nắng tháng Năm Sài Gòn, vì dân quê đi bộ đội là vào rừng, lần đầu tiên đến thành phố nên Thành không biết đó là thứ gì, Thành níu vai tôi la toáng lên: “Anh Khôi ơi! Kim cương! Kim cương nhiều chưa kìa!”. Tôi nín cười, mắng: “Im đi, họ cười cho đấy, đó là nước đá, họ làm đông nước thành đá!”. Thế mà chỉ vài ngày sau, cậu ta lại là người sáng kiến lấy giấy báo ủ để nước đá lâu tan. Chúng tôi in báo Trung đoàn, Sư đoàn bằng “công nghệ thủ công” ấy mãi đến năm 1976 mới thôi!

ĐI CHỢ SÀI GÒN 30-4...
Là một cử nhân tốt nghiệp Trường Đại học Thương nghiệp Hà Nội hẳn hoi, mà sáng 30-4, tôi mới lần đầu tiên biết thế nào là quảng cáo! Dọc đường từ Xuân Lộc vào Biên Hòa, trên sa lộ Sài Gòn có trưng rất nhiều  tấm biển to tướng với đủ màu sắc lòe lọet. Lớn nhất và gây ấn tượng là tấm biển vẽ một gương mặt người da đen đang cười, khoe hàm răng trắng tinh, đều răm rắp với chữ Hynos to tổ bố. Tấm biển rộng hàng chục mét vuông, được dựng bằng khung sắt bê tông cao lớn giữa cánh đồng, đi xa hàng chục cây số vẫn thấy! Tôi hỏi một chị du kích dẫn đường ở Biên Hòa là họ vẽ cái gì thế. Chị nhìn tôi như thể từ mặt trăng rơi xuống, rồi cười toáng lên: “Đó là quảng cáo hàng hóa. Họ quảng cáo loại thuốc đánh răng tên là Hynos! Cả miền này dùng loại thuốc đánh răng này đấy!”. Đó là thứ mà tôi chưa bao giờ được học ở trường đại học ở Hà Nội!

Từ ngày 1-5- 1975, ở Sài Gòn mua bán vẫn diễn ra bình thường. Sáng ngày 1.5.1975 và những ngày sau đó, chúng tôi lại “trốn” đi chợ Bến Thành, chợ Lớn. Lúc này, dù là quân quản, nhưng các chợ ở Sài Gòn bà con tiểu thương vẫn buôn bán bình thường. Các cửa tiệm quần áo may sẵn, vải, len, dạ. .. vẫn mở cửa. Các xe nước mía, nước sinh tố, các xe bánh mỳ... rôm rả tiếng chào mời.

Loại hàng chạy nhất lúc ấy là cờ đỏ sao vàng đủ loại to nhỏ và tấm biển mi-ca nền đỏ chữ vàng “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Người ta đổ nhau đi mua. Cờ đỏ sao vàng để treo ở cổng nhà và lập bàn thờ Tổ Quốc có ảnh Bác Hồ, còn tấm biển “không có gì quý hơn độc lập tự do” để gắn lên tường. Sau này tôi mới biết là các loại cờ, biển ấy là do làng Thổ Tang (Phú Thọ) sản xuất và họ ùn ùn chở vào theo ngay sau đoàn quân giải phóng! Nhạy bén kinh doanh như thế phải gọi là siêu!  Loại hàng “cách mạng” thứ hai là phù hiệu, quần áo quân giải phóng! Bà con tiểu thương Sài Gòn không biết rằng, quần áo, sao mũ, quân hàm quân hiệu bộ đội là thứ cấm bán. Trang phục quần áo, dép cao su bốn quai (dép râu ) và cả quân hàm, quân hiệu hai màu xanh đỏ của Quân giải phóng mới toe không biết ở đâu ra mà nhiều lắm, bày la liệt trên các hiệu tạp hóa, và những mẹt hàng rong bên đường. Có lẽ bà con cho rằng hễ cứ đeo sao, đội mũ, mặc quần áo bộ đội giải phóng thì khỏi bị làm phiền, sẽ tránh được tai vạ trên đường chăng?

Bán đầy các vỉa hè Sài Gòn trong những ngày đầu giải phóng còn có  các thứ đồ dùng của lính Mỹ như bật lửa Zip-pô, các loại dụng cụ ăn uống bằng in-nox như dao, nĩa, thìa, khay đựng thức ăn lính, kể cả bình tông, ca uống nước, ba lô, quạt điện, bàn là, dao cạo râu... Đó là những món hàng mà người dân hôi được từ các sở Mỹ. Người thì mua để dùng, vì  những thú đồ đó rất tốt. Người thì mua để “kỷ niệm”. Chỉ cần vài nghìn đồng tiền Sài Gòn (cũ) hay nghìn tiền giải phóng lúc đó là có thể có một bộ đồ ăn của lính Mỹ mới tinh mà bây giờ có cả trăm nghìn bạc không thể nào mua được!

Loại hàng bán chạy thứ ba là hàng “lưu niệm” bán cho bộ đội về Bắc như: khung xe đạp, rađiô Nhật, đồng hồ Nhật, búp bê nhựa, áo len, khăn voan.v.v… Trên các bến xe, hình ảnh người bộ đội ba lô căng phồng, trên buộc một chiếc khung xe đạp và treo vắt vẻo con búp bê có đôi mắt chớp nhấp nháy, long lanh đã trở thành hình ảnh đặc trưng, quen thuộc!. Các loại khăn len búp bê, áo comple, áo len... thời đó ở chợ Bến Thành, Chợ Lớn... mua một chiếc được biếu một chiếc. Tất len (vớ) chỉ 5 đồng một đôi, lại được biếu thêm đôi nữa. Tôi hỏi chị bán hàng ở chợ Bến Thành: “Sao lại mua một biếu một thì còn gì lời lãi!” Chị bảo: “Buôn bán là dzậy, chú!”.

Phụ cấp lính giải phóng của chúng tôi những ngày ấy là 2.000 đồng tiền ngụy một tháng, có thể mua được chiếc đồng hồ Orien “3 cửa sổ”. Chị Chàng ở Kim Động (Hưng Yên), nơi tôi ở hai năm liền trong thời gian trường đại học sơ tán, không hiểu mần răng biết địa chỉ của tôi, mà  gửi vào mấy tờ 10 đồng tiền Cụ Hồ. Tờ mười đồng đó có thể đổi được 10.000 tiền ngụy. Nhưng tôi chẳng mua được gì về làm quà cho chị cả, mà dùng tiền đó để vài hôm lại “đi chợ”, vô nhà hàng ăn các món Sài Gòn “cho biết”! Có lần vào tiệm Tàu ở Chợ Lớn, thấy người ta bày ra bàn ăn đủ thứ khăn lớn nhỏ, rồi hàng chục thứ dao nĩa in nox sáng loáng. Mình dân nhà quê một cục, chưa dùng các thứ “phụ tùng” đó bao giờ. Thế là bộ đội có sáng kiến, cứ nói chuyện nhẩn nha, liếc xem các bàn bên họ dùng khăn nĩa như thế nào, cứ thế làm theo. Mấy lần cũng thành quen!

Bộ đội giải phóng đa phần là thanh niên học cấp 2 cấp 3 làng quê miền Bắc Họ lớn lên ở nông thôn, vào chiến trường lại ở rừng núi, nên vào Sài Gòn anh em rất bỡ ngỡ. Có chuyện vui mà mỗi lần nhớ lại tôi lại cười một mình. Anh Diên người Tày, quê Lạng Sơn là anh nuôi đơn vị tôi. Ngay buổi sáng 1.5. 1975 đi chợ mua chục con cá lóc. Anh về đếm mãi vẫn cứ 12 con, bèn lật đật ra chợ tìm cho được bà bán cá trả lại hai con vì “tội người ta”, “buôn bán kiểu này thì lời cái gì”. Khi anh tìm được bà bán cá, bà cười toáng lên: “Chú giải phóng ơi, “một chục” ở đây là 12 chứ không phải mười nghen!”. Anh về kho nấu bữa tối, còn hai con cá để lại ngày mai, anh cho vào chỗ bệ cầu vì thấy ở đó có nước! Sáng mai anh đi bắt cá để nấu cháo thì cá không còn nữa. Anh đi báo cáo thủ trưởng, tưởng có người làm mồi nhậu ban đêm. Đến nơi ai cũng ôm bụng cười vì cá thì mất, mà cầu thì tắc, phải nhờ ông thợ hàng xóm sang thông hộ.

Chỉ vài ba ngày sau “anh nuôi” Ban chính trị của tôi đã không phải đi chợ mua thực phẩm nữa, mà đã có các bà ở chợ Cầu Bông gánh cá thịt vào bán ngay ở cổng. Còn các loại xe nước mía, nước sinh tố, các xe bánh mỳ... rôm rả tiếng chào mời đêm ngày. Ở hẻm Cây Điệp, cứ đêm đêm lại có tiếng rao hàng mà luyến láy du dương như hát: “Bột nếp, bột mì, nhân đậu, nhân thịt... ờ hơ...”. Lúc đầu tôi chẳng hiểu họ rao gì. Hỏi mới hay là họ bán bánh bao! Ừ, mình cử nhân thương mại xã hội chủ nghĩa mà ngây ngô thật, đến việc quảng cáo, rao hàng cũng lạ lẫm...

Mới đó mà đã ba mươi năm. Con cái tôi bây gờ nó đã lớn hơn tuổi mình ngày đầu tiên đi mua thịt cầy ở Sài Gòn. Nhưng sao những kỷ niệm cứ như mới hôm qua, thơm nức mùi quần áo lính...
Huế, xuân 2005
N.M

(nguồn: TCSH số 194 - 04 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • bút ký của Lê Vũ Trường Giang

    Nhìn trên bản đồ, vùng bờ biển của Huế là một dải đất mỏng như lưỡi liềm, những đường cong với nhiều bãi tắm đẹp thu hút du khách cùng những làng nghề chế biến muối và nước mắm nổi tiếng.

  • NGUYỄN QUANG HÀ

    Đi trên đường phố Huế bao giờ cũng có cái cảm giác êm ả. Nhất là mỗi lần từ trong Nam ra, ngoài Bắc vào, đến Huế, ta như vừa bất chợt gặp lại sự yên lành.

  • SONG CẦM  
          Bút ký  

    Với tôi, nước Nhật không những không xa lạ mà còn rất gần gũi. Tuy vậy, tám năm ở Nhật trước đây chưa phải là dài lắm để tôi đủ thời gian và cơ hội trải nghiệm tất cả.

  • PHÙNG SƠN

         Truyện ký

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Chúng tôi về Điền Lộc vào một ngày tháng năm, nắng hực trảng cát hun hút trải dài mùa biển.

  • NGUYỄN PHƯƠNG ANH

    LGT: Chu kỳ biến đổi khí hậu khiến thời tiết Huế mấy năm gần đây thay đổi rõ rệt. Huế ít lụt hẳn đi, thậm chí lụt cũng thay đổi chu kỳ lụt, ai đời như năm nay, lụt (tiểu mãn) vào tháng hai ta.
    Lụt Huế thay ngày tháng năm, nhưng ký ức thì khó phai mờ, như tùy bút dưới đây…

  • HÀ LINH

    1.
    Con đường xa tắp. Chuyến đi xuất phát với lòng tin nơi đến là cuộc hành trình từ bỏ hạnh phúc con người.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG   


     Bút ký  

    Ngắm những ruộng bậc thang chín vàng rực rỡ cả thung lũng, ít ai nghĩ rằng cái tên Mù Cang Chải theo tiếng người H’Mông có nghĩa là làng Cây Khô.

  • Lời người sưu tầm: Có những người xuất hiện với tác phẩm đầu tay như một ánh chớp, gây xôn xao và hâm mộ trong bạn đọc một thời nhưng rồi sau đó, mặc dầu cũng có một sự nghiệp văn học, có hàng bao nhiêu trăn trở tìm tòi, rồi cũng có dăm bảy, thậm chí hàng chục tác phẩm tiếp theo nhưng không sao tìm thấy được sự khởi sắc sâu đậm như tác phẩm ban đầu.

  • HÀ KHÁNH LINH
                    Bút ký

    Trường được thành lập từ năm 1963.
    Thầy và trò lần lượt ngã xuống trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đến nay chỉ còn sót lại hơn một nửa, tìm cách liên lạc với nhau mãi mới thực hiện được một chuyến trở về tìm lại dấu tích mái trường xưa - giờ đã nằm sâu vào lãnh thổ nước Lào...

  • PHƯƠNG ANH 

    Tôi thường chọn cho mình những phút giây lặng lẽ, bình yên của những ngày vào thu ở một góc quán vắng để ngắm nhìn dòng xe xuôi ngược, mỗi chuyến xe là một cuộc đi.

  • VÕ NGỌC LAN 

    Tôi vẫn thường thắc mắc không hiểu có ai sống với nhau tròn trăm năm không? Bởi tuổi của đời người mong manh, chẳng ai chờ ai, rồi lại nghĩ mình có ngộ nhận chữ nghĩa trăm năm đó không?

  • PHI TÂN
         Bút ký

    Phá Tam Giang trải dài theo hướng từ Bắc vào Nam, song song với bờ biển từ huyện Phong Điền cho đến huyện Phú Lộc (Thừa Thiên Huế), được chảy vào bởi ba con sông lớn là sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hương.

  • NGUYỄN THẾ TƯỜNG
                   Truyện ký

    "Kiến Giang nước chảy một dòng
    Bên bồi bên lở đau lòng hay chưa
    "
                           (Ru con Lệ Thủy)

  • VI THÙY LINH

    Trong các phần của cơ thể con người, tóc thuộc về ngoại hình mà câu chuyện tóc liên quan, ảnh hưởng tới nhiều mặt, từ mỗi con người tới lịch sử nghệ thuật, xã hội. Tóc rụng hằng ngày nhưng mấy ai thương tóc. Đời tóc đi qua những đời người.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
                             Bút ký

    Bạch Mã có mối lương duyên thuần khiết với mây, đến cái tên gọi cũng bắt nguồn từ những áng mây quanh năm quần vũ trên chóp núi.

  • NGUYỄN NGỌC PHÚ
                        Bút ký

    Trong chuyến hành hương trên đất Phật chúng tôi đã đến ba vùng đất quan trọng liên quan đến cuộc đời Đức Phật, ba địa danh nằm trên đất Ấn Độ đó là Boddhgaya nơi Đức Phật sau bao thăng trầm trong cuộc tìm kiến chân lý đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Đề và giác ngộ.

  • PHƯƠNG ANH

    Tôi đã từng nhìn vào ánh mắt của những người đàn bà, những người mẹ; những đôi mắt luôn ẩn giấu những câu hỏi: Hạnh phúc là gì? Bởi cuộc đời họ dường như chẳng có lấy được một phút giây thanh thản để tự hỏi rằng: Mình là ai?

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Tết về là gói bánh tét. Thế mà bây giờ cái mặc nhiên ấy không còn là mặc nhiên. Cái ông già tuổi đã cổ lai hy cứ nhớ vẩn vơ chuyện ấy mỗi khi Tết về.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG  

    Đi qua miền sơn cước lớp lớp mây mù giăng trên những đầu núi, vượt đèo A Co, những cơn gió đông của A Lưới heo hút, lạnh băng xộc từ những hẻm núi sâu táp sa mặt mũi.