Chuyện một người tự tử ở Huế

16:47 18/03/2009
NGUYỄN QUANG HÀMột buổi sáng vợ chồng anh Thảo, chị Ái đang đèo nhau, phóng xe Honda trên đường Nguyễn Trãi, một con đường lớn của thành phố Huế, bỗng có một người lao thẳng vào xe anh Thảo. Nhờ tay lái thiện nghệ, nên anh Thảo đã phanh xe kịp. Hai vợ chồng dựng xe, ra đỡ nạn nhân dậy.

Đó là một bà già đã ngoài 70 tuổi. Anh Thảo chị Ái chưa kịp nói gì, thì bà già đã nói với vẻ rất tức giận:
- Mi không cho tau chết ở xe mi thì tau sẽ tông vào xe khác mà chết.
Vốn là cán bộ đã về hưu, anh Thảo xác định ngay rằng chắc bà già có điều gì uẩn khúc, đang bị bức xúc mạnh. Hai anh chị liền dỗ dành bà về nhà anh chị đã, rồi có gì sẽ nói sau.
Trong gia đình, anh Thảo trò chuyện thân tình, bà già thấy anh chị không phải là kẻ đáng ghét, ngược lại có thể tin cậy được, bà liền mở nút áo trên, rút trong ngực ra một tập hồ sơ. Giọng nói của bà là giọng nói của người đang tức giận:
- Tau hoạt động cho cách mạng từ năm 1947 đến 1954, rồi từ 1954 đến 1975, mà chính quyền này không giải quyết chính sách chi cả. Sống với chính quyền in ri thì chết đi cho xong.
Thảo cầm tập hồ sơ. Ngay trang đầu là mấy hàng chữ to, nghuệch ngoạc: “Tôi tự tông vào xe này để chết. Xin đừng bắt tội họ”.
Thì ra bà già quyết tự tử chứ không đơn thuần là một tai nạn giao thông thông thường.
Thảo lật từng trang hồ sơ. Bà già lao vào xe anh để chết, tên là Hoàng Thị Giơi, 73 tuổi, trú tại đội 9, thôn Long Khê, xã Hương Vân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.

Trong kháng chiến chống Pháp, bà tham gia cách mạng từ 1947 đến 1954. Trong kháng chiến chống Mỹ, bà tham gia cách mạng từ 1954 đến 1975. Những người đứng tên xác nhận lý lịch, lời khai cho bà Giơi là các ông: Nguyễn Hữu Hường - Nguyên bí thư Hương Trà, ông Trần Lại - xã đội trưởng Hương Vân, ông Châu Ngọc Luyến, ông Trần Mậu Hoài, ông Trần Mậu Lực, ông Nguyễn Kế, ông Hà Văn Tuế đều khẳng định bà Giơi có tham gia cách mạng.
Xin trích một đoạn xác nhận của ông Nguyễn Hữu Hường: “Từ năm 1962 đến tháng 3/1975 (bà Giơi) là cơ sở cách mạng tin cậy trong vùng địch tạm chiếm, có công làm hầm bí mật trong nhà nuôi giấu cán bộ cách mạng bám trụ hoạt động trên địa bàn xã Hương Vân và vùng kế cận + làm tình báo cung cấp được nhiều nguồn tin chính xác phục vụ kịp thời yêu cầu chỉ đạo đánh phá có hiệu quả âm mưu của Mỹ Ngụy và bảo vệ cơ sở cách mạng + thu mua lương thực cất giấu tiếp tế cho các lực lượng vũ trang cách mạng  + làm ám tín hiệu cho cán bộ, bộ đội đột nhập vào hoạt động trong vùng địch kiểm soát được bí mật an toàn và có hiệu quả”.

Ông Trần Mậu Hoài xác nhận: “Bà Giơi tham gia với công tác cách mạng từ 1947 đến 1954. Bà là liên lạc, và mua lương thực thực phẩm nuôi giấu cán bộ nằm vùng. Từ 1954 đến 1965 bà là cơ sở mật nuôi giấu cán bộ nằm vùng. Tôi đều biết. Đến 1972 tôi ra Bắc, tôi không rõ”.
Tất cả những xác nhận đều khẳng định bà Giơi có hoạt động cách mạng từ 1947 đến 1975.
Hồ sơ của bà Giơi được xã Hương Vân và huyện Hương Trà gửi lên ban thi đua tỉnh Thừa Thiên. Hồ sơ ấy được ông Lê An Ninh, chánh văn phòng UBND tỉnh Thừa Thiên đề nghị ban thi đua trung ương khen thưởng cho bà Giơi huân chương chống Pháp hạng nhất, và huân chương chống Mỹ hạng nhất.
Theo chúng tôi, tỉnh đánh giá như vậy là xác đáng.
Điều đáng nói là, không hiểu sao hồ sơ đã có đầy đủ tính pháp lý như vậy không những không được đưa lên trung ương xét tiếp, mà nó lại quay về xã Hương Vân.

Cho mãi đến tháng 10/2004, UBND tỉnh Thừa Thiên mới có công văn cho huyện Hương Trà, với những lời lẽ càng đọc càng thấy tắc trách: “Sau khi kiểm tra, xem xét hồ sơ lưu giữ ở UBND tỉnh nhận thấy: năm 2001 hồ sơ bà Hoàng Thị Giơi đã được HĐTĐKT các cấp xét trình, song do sự kê khai thành tích của bà Hoàng Thị Giơi và những người xác nhận không khớp nên việc thi đua khen thưởng Nhà Nước đã trả hồ sơ về cho đương sự và yêu cầu đương sự bổ túc hồ sơ đầy đủ để tiếp tục trình, xét lại theo thứ tự”.
Thật nực cười, xã, huyện, tỉnh đều xác nhận đúng, ban thi đua trung ương xa vời vợi mà lại đánh giá một văn bản có giá trị pháp lý như vậy, mà không cụ thể sự “không khớp” ấy là chỗ nào. Không rõ chỗ không khớp làm sao đương sự sửa cho đúng yêu cầu.
Anh Thảo hỏi bà Giơi:
- Mệ xem trong quá trình làm hồ sơ cho mệ ở xã có điều chi khuất tất không?
Suy ngẫm một hồi bà Giơi đáp:
- Chỉ có việc vợ anh Thuyên, anh Thuyên là cán bộ chính sách thi đua của xã, đến nói với tui rằng: “Mệ đưa cho nhà cháu một triệu sáu (1.600.000 đồng) để nhà cháu làm hồ sơ cho nhanh”. Tui đáp: “Đến 10 ngàn đồng trong túi tui còn không có thì lấy mô ra một triệu sáu. Chị cứ nói với anh là sau này có bao nhiêu tiền huân chương tui nhận, sẽ đưa cho anh chị hết”.

Thật không thể tưởng tượng được với một cơ sở cách mạng, lại đang nghèo hết chỗ nói, không có 10 ngàn đồng trong tay, mà cán bộ xã Hương Vân vẫn nghĩ đến cách nặn cổ, bóp họng họ như thế thì còn gì là chính quyền của nhân dân. Xã Hương Vân cần làm rõ điều này và chọn cán bộ sao cho dân không phải chịu cảnh nhũng nhiễu đó nữa.
Chưa xong, để trả đũa sự không nghe lời đến tiệt nọc. Bịt tất cả các đầu mối, ông Thuyên chợt nghĩ đến ông Nguyễn Hữu Hường, nguyên bí thư Hương Trà, Thuyên cho thực hiện ngay một kế hoạch: vào một buổi sáng, mẹ Thuyên được em Thuyên chở từ Hương Trà lên Huế, vào nhà ông Hường, bà mẹ Thuyên nói ngay:
- Mấy đứa con tui chết hết ở Hương Vân rồi.
Ông Hường ngỡ ngàng hỏi:
- Chuyện ra răng?
Bà mẹ Thuyên nói liến thoắng:
- Ở xã, ở huyện họ đã làm mọi cách để gạt bà Giơi ra khỏi danh sách khen thưởng rồi. Bây chừ chỉ còn mình ông xác nhận cho bà ấy nữa thôi. Xác nhận của ông chẳng phải là cách giết các con tui đó sao.

Kế hoạch nằm vạ ấy đã có kết quả. Một tuần sau ông Nguyễn Hữu Hường đã về xã Hương Vân viết một cái đơn xin rút những xác nhận của mình cho bà Giơi.
Tôi nhớ một lãnh tụ có nói: Con người ấy hôm nay là anh hùng được ngưỡng mộ, nhưng ngày mai biến chất, lấy cá nhân mình ra để áp đặt vào việc chung, thì con người ấy đã mất lòng ngưỡng mộ của quần chúng.
Tôi nghĩ, ông Nguyễn Hữu Hường cũng là một trong những con người như thế. Việc xác nhận cho người ta: “là cơ sở tin cậy trong vùng tạm chiến, có công làm hầm bí mật trong nhà nuôi giấu cán bộ bám trụ hoạt động trên địa bàn xã Hương Vân và vùng phụ cận”, vậy mà bây giờ sổ toẹt hết. Tại sao thời gian cách nhau không lâu mà ông Hường lại đổi giọng như vậy? Có lẽ đây đúng là cách bình luận của dân gian: Kẻ ăn cháo đái bát. Ông Hường quên rằng gia đình cơ sở nào trong kháng chiến chống Mỹ có hầm bí mật nuôi cán bộ trong nhà là tự đeo trên ngực mình, vợ con mình cái án tử hình của kẻ thù rồi.

Tôi nhớ có lần về thăm cơ sở cũ ở An - Sơn. Một bà mẹ đến thăm tôi hỏi: “Ông Lục có khoẻ không?”. Có tiếng trả lời luôn: “Hắn chết rồi”, một bà khác liền nói: “Bữa vừa rồi tui đi chợ Đông Ba còn gặp ông ấy mà”, bà mẹ kia lại nói: “Dân ở đây đã nuôi giấu ông ấy trong chiến tranh, bấy nhiêu năm không đáo qua thăm hỏi thì rõ là chết rồi còn gì”. Một bà mẹ giọng rỉ rả nói: “Nếu chừ bọn Mỹ quay lại đây, tau cũng sẽ tiếp tục giấu bọn bay trong ống quần, song không phải để đưa ra giấu trong hầm bí mật, mà tau sẽ nộp cho Mỹ”.
Quần chúng cách mạng vốn từng hy sinh cho cách mạng là thế, sao giờ cách nghĩ của họ lại khác? Điều ấy phải khẳng định là nhiều cán bộ cách mạng cũng đã “ăn cháo đái bát” như Nguyễn Hữu Hường.
Hỏi dân còn biết tin ở ai nữa?
Có dịp về xã Hương Vân, nhóm phóng viên chúng tôi gặp ông Hồ Như Anh, chủ tịch xã, anh Dũng, anh Uý, chủ tịch, phó chủ tịch hội cựu chiến binh xã.
Chúng tôi hỏi:
- Chuyện bà Giơi, các anh tính sao?
Ông Anh đáp:
- Đã xác nhận bà ấy có công trong kháng chiến chống Pháp, và xác nhận bà ấy là thương binh, nhưng kháng chiến chống Mỹ, công lao của bà ấy có nhiều ý kiến.
Chúng tôi nói:
- Trong kháng chiến chống Pháp các anh bảo năm 1947 bà Giơi còn nhỏ sao lại tham gia kháng chiến được. Thực tế đã trả lời năm ấy bà Giơi đã 15 tuổi. Trẻ như Lượm ở Huế, Kim Đồng ở Cao Bằng còn tham gia cách mạng được kia mà. Các anh đã chịu. Còn thành tích chống Mỹ thì sao?
- Có người nói không thấy bà ấy hoạt động.
- Các anh quên mất một điều là trong kháng chiến, chúng ta dùng những cơ sở đơn tuyến, cơ sở của ai thì nấy biết. Mọi người đều biết thì có mà chết cả nút. Người phát biểu ấy là vô trách nhiệm với cơ sở của cách mạng đấy.
- Có người nói năm 1972 bà Giơi lấy chồng. Phía trước nhà chồng là đồn giặc, ai dám tới đó để bắt mối.
- Anh quên là ngay trong thành phố Huế, ngay trong hàng ngũ binh lính địch ta đã chẳng có cơ sở đó sao. Hình thức hoạt
động cách mạng rất phong phú. Hai bên hẹn với nhau một hòm thư mật chẳng hạn. Thế là vẫn thuỷ chung với cách mạng. Chỉ xin các anh đừng nghe dư luận chung chung. Chúng tôi biết trong xã Hương Vân này có một số người vì lẽ này, lẽ khác không ưa bà Giơi, họ tìm mọi cách để hại bà ấy. Trường hợp anh Thuyên cán bộ chính sách của xã là một ví dụ.
Ông Anh đáp:
- Chúng tôi sẽ nghiên cứu lại để làm hoàn chỉnh hồ sơ của bà Giơi.
Chúng tôi đáp:
- Ở xã này người ta đang cố gắng, ấm ớ kéo dài thời gian cho hết năm 2005, không làm xong hồ sơ cho bà Giơi, tức là hết hạn xét duyệt, để bà Giơi không thể được khen thưởng gì hết. Xin các anh quan tâm cho điều đó. Một người như bà Giơi, không thể là người thiếu thành tích, hoặc không có thành tích gì. Các anh cứ xét, công lao của bà Giơi đến đâu thì xét duyệt đến đó.

Năm 2005 này, bà Giơi đã 73 tuổi. Không được như phụ nữ thành phố ăn trắng mặc trơn, nếu ai gặp bà, phải nghĩ là bà đã 80 tuổi. Quần áo sơ sài. Đụng nói đến công lao trong kháng chiến là bà khóc. Tiếng khóc ấm ức, ai oán, đau lòng.
Chỉ nghĩ tới việc bà Giơi đặt tập hồ sơ vào ngực rồi quyết nhảy vào xe hon đa để chết, lấy cái chết trả lời cho lòng mình, người đó không thể là người dối trá. Từ năm 1947 đến 1975, gần ba chục năm trời hoạt động bí mật, có người xác nhận đàng hoàng đúng tư cách pháp nhân mà bị một số kẻ định gạt bà ra khỏi danh sách khen thưởng của Nhà Nước, quả là một hành động bỉ ổi, chẳng khác gì tư cách của một kẻ lưu manh.

Trừ ông Nguyễn Hữu Hường đã rút ý kiến xác nhận của mình, còn tất cả các nhân chứng kia đã gửi kiến nghị tới hội đồng thi đua xã, huyện và tỉnh, vào đầu đơn, đã viết:
“Chúng tôi là những người lão thành cách mạng trong 2 cuộc chống Pháp và chống Mỹ xin viết đơn này đề nghị các cấp giải quyết sự việc cho sáng tỏ đối với trường hợp của bà Hoàng Thị Giơi là người đã có công giúp đỡ cách mạng trong thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ”.
6 người đã ký vào đơn kiến nghị này.
Theo như tôi hiểu, người đứng ra khai, chỉ cần 2 người xác nhận là đầy đủ. Đằng này trường hợp của bà Giơi có tới 6 chữ ký xác nhận, vậy chẳng đã thừa tư cách pháp nhân rồi sao?
Bà Giơi 73 tuổi, nhưng nhìn bên ngoài đã lụ khụ, chậm chạp. Tôi nhìn bà lại nghĩ tới một ngọn đèn leo lét trước gió, không biết tắt lúc nào.
Từ năm 1975 đến nay đã 30 năm. 30 năm không giúp cơ sở hoàn chỉnh hồ sơ, quả là đã quá chậm chạp.

Để giữ được lòng tin của dân với chính quyền, với Đảng, tôi thiết nghĩ không được lơ là với cơ sở cách mạng, như bà Hoàng Thị Giơi: Đề nghị các cấp chính quyền trả lại sự công bằng cho họ. Họ đã sống chết vì cách mạng, chính quyền uống nước nhớ nguồn, chính là đạo lý của dân tộc ta vậy. Chỉ có những kẻ uống bia, uống rượu ngoại nhiều mới không nhớ tới nguồn gốc của mình.
N.Q.H
(197/07-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...