Nhà văn Nguyễn Thế Tường - Ảnh: vanhocquenha.vn
[if gte mso 9]>
Xe chạy được dăm chục cây số, tôi mới giật mình hỏi:
Hai chúng tôi đi về phía bến. Đúng là đò ngang thật. Trên lòng thuyền còn kê ván lót. Mạn thuyền có đóng nhiều đoạn dày để cho khách ngồi. Đằng lái có chiếc chiếu cho lái thuyền ngả lưng và cái túi đựng tiền chắc là toàn những đồng hào lẻ. Dũng chào chị lái đò, một tay túm búi rễ cừa, kéo tôi ngồi xuống mạn và chị lái đò lạnh lùng quay lái. Thế là, chuyến đò ngang muộn màng, ế ẩm chở hai ông khách kỳ quặc là Dũng và tôi, tiến ra giữa dòng sông. Một tia nắng còn sót lại chiếu chênh chếch vào mạn thuyền. Cả tôi và Dũng không đứa nào nghĩ tới việc cầm chèo đằng mũi chèo giúp như khách thường làm mỗi khi đò đầy, sóng cả. Chiếc đò lừng khừng tiến ra giữa sông. Tôi chợt nhận thấy nó loay hoay như không muốn vào bến. Bất giác tôi nhìn chị lái đò. Suốt đời tôi không bao giờ quên chân dung người phụ nữ đó. Chị là hiện thân của một vẻ đẹp thuần khiết đồng quê. Đôi môi đầy chất phác, gò má đầy đặn phúc hậu. Đôi mày kéo lên rồi hạ xuống phía đuôi mắt thành một chữ V ngược, sâu lắng. Chiếc áo láng đen bó sát thân hình đầy đặn, chắc lẳn như một khúc bánh tét, nổi lên bộ ngực khỏe mạnh. Tay áo xắn cao để lộ đôi cánh tay rắn rỏi của người quen chèo thuyền. Chị đứng cao trên lái thuyền, thân hình tạc vào bầu trời hoàng hôn những đường cong mạnh mẽ, cân đối. Đôi mắt chị không hướng vào bờ mà ngước nhìn đi đâu đâu lên phía cầu đang mỗi lúc càng đông người. Mái chèo cứ hờ hững, loạng choạng gạt nước. Chiếc đò đi nghiêng nghiêng như một gã đàn ông say rượu. Cuối cùng rồi thuyền cũng cập bến, suýt nữa va phải cái am nhỏ đứng dầm chân dưới nước, trong am nghi ngút khói hương. Tôi móc bóp lấy ra năm hào bước qua lòng thuyền đưa cho chị. Người lái đò tay vẫn cầm chèo lặng lẽ lắc đầu, trong đôi mắt chị có một điều gì đó không thể nào diễn tả nổi. Dũng kéo tay tôi lảo đảo bước lên bờ nhanh miệng chào: - Thôi, cảm ơn chị nghe! Người phụ nữ vẫn đứng rất vững trên lái thuyền. Tôi nghe một tiếng “dạ” nho nhỏ vọng tới. Lên tới đường, ngoái lại tôi vẫn thấy chiếc đò nằm đó và người phụ nữ đường nét như tranh vẽ, lặng lẽ đứng cầm chèo. Trai gái vẫn từng tốp, từng đôi đạp xe qua cầu, không một ai để ý đến người và đò cô đơn dưới dòng sông. Dũng nháy mắt: - Lạ lắm hả? - Ừ, lạ thật! Tôi thú nhận. Dũng trầm ngâm ra chiều suy tư: - Hiện tượng này, các nhà tâm lý học gọi là “quán tính tâm lý”. - Quán tính tâm lý? Dũng rườm rà: - Trước hết, tôi kể cho ông nghe một câu chuyện cổ tích lưu truyền ở vùng này. Ông là dân thành phố nên không hiểu lắm tâm lý của người vùng sông nước. Lúc nãy qua sông, ông có chú ý đến những cây cừa ở bến đò không? Cái cây có bộ rễ phụ xõa xuống nước như tóc đàn bà ấy, với cái am thờ ở bến sông nữa, cả một thiên truyện cổ tích đấy, nó như thế này: … Ngày xưa, ở ngã ba sông này có mụ Trẹo không chồng, không con, sống cô độc với con đò ngang. Ngày ấy, người trên cạn còn thưa thớt, bờ sông cây cối um tùm mà dưới nước ma-rà nhiều lắm. Ngày ngày mụ Trẹo chèo đò đưa người qua sông đi chợ, đi bẻ bắp, cúng giỗ, đám đình. Qua đò, ai trả cái gì mụ cũng lấy. Cuộc đời mụ tưởng chừng như sẽ gắn bó với con đò cho đến khi chết. Nào ngờ, một đêm, trời đột ngột nổi cơn dông, mưa lớn ở thượng nguồn. Con nước đổ về cuốn phăng chiếc đò của mụ ra biển. Sáng ra mất thuyền, mụ lăn lộn kêu khóc, xắn quần, vén áo đi tìm suốt ba tháng mười ngày, không thấy. Về nhà mụ xõa tóc thắp hương vừa đi ăn mày vừa lễ bái ở bến đò suốt ba tháng mười ngày nữa. Rồi một đêm không trăng sao mụ nhảy xuống sống với ma-rà. Lại ba tháng mười ngày nữa ma-rà đẩy xác mụ lên bờ biến thành cây cừa ngày ngày đứng xõa tóc xuống nước… - Thôi, thôi, đừng kể nữa, nghe dễ sợ quá. - Chuyện cũng đến đó thôi. Sau này người ta lập miếu thờ mụ, thiêng lắm ai đi đêm hôm khuya khoắt muốn quá giang cứ khấn mụ là có đò ngay à. Sau này nữa, ai muốn sắm đò ngang phải cúng mụ, xây am thờ và trồng cừa ở bến đò, như cái bến tụi mình qua đó. Tớ kể chuyện này để chứng minh cho cậu rõ ràng: Người dân vùng chiêm trũng này gắn bó với con thuyền lắm. Đẻ ra đã nhìn thấy con thuyền. Đi nhổ mạ, thuyền, đi cấy, đi gặt, đám đình, giỗ, chạp, hội hè bằng thuyền hết. Khi chết cũng được đưa xuống thuyền ngược lên chôn trên núi. Tôi nhận xét: - Mình thấy thương thương cái chị lúc nãy thế nào ấy, cậu ạ! - Cậu bảo không thương mà tớ rủ cậu đi đò ngang cả khi cái cầu đã nằm chình ình ra đó à. Bà ấy không nhớ, chứ tớ không thể quên bà ấy được. Hồi còn ở nhà đi học trường huyện ngày nào chả qua đò. Có khi vội quá làm đò chòng chành bà ấy nạt phải biết. Nhưng thường ngày bà ta cũng dễ thương lắm. Có hôm đi học về muộn, đói vàng mắt, bà ấy còn dúi cho trái bắp, củ khoai mập ú, ngon lành. Chiều nay, khi cắt băng khánh thành thông cầu tớ đã nhìn thấy bà ta đậu thuyền dưới chân cầu. Rồi khi chúng mình “nâng cốc” trong hội trường huyện, nhìn ra vẫn thấy bà cầm chèo ngồi trên lái thuyền. Tớ mới biết bà không dễ gì rời con thuyền được. Nên tớ mới rủ cậu xuống đi chuyến đò cuối cùng này. *** Lên bờ, Dũng coi như đã hoàn thành nhiệm vụ. Anh ta vui vẻ huýt sáo rảo bước sang bên kia cầu, nơi tối nay sẽ có buổi xi-nê chiêu đãi nhân lễ khánh thành cầu. Tôi đứng thơ thẩn một lát rồi đến ngồi trên bãi cỏ trên bờ sông. Gần đó cũng có những cây cừa già đứng xõa tóc xuống nước. Trời đang tối dần. Mặt sông sẫm lại, xanh đen như màu mực. Trên cầu, đèn điện bật sáng chiếu loang loáng xuống mặt sông. Tiếng loa phóng thanh bên kia cầu vang lên. Dòng người ùn lên cầu càng đông. Có tốp bươn ngay qua bãi chiếu. Nhiều người dừng lại, tựa lan can nhìn xuống mặt nước, hít thở mùi vôi vữa chưa kịp khô, hứng làn gió lang thang thổi dọc triền sông, tận hưởng cái cảm giác khoái trá được đứng ngay trên dòng sông vừa bị chinh phục. Tôi ngồi nhìn dòng người vui lây cái niềm vui chính đáng của người dân đồng quê, và tự thấy hổ thẹn cho mình. Ở Huế, mỗi ngày bốn lần đạp xe đi về qua hai chiếc cầu bắc qua sông Hương, chưa bao giờ tôi có được chút tự hào sung sướng như thế. Phải chăng vì tôi chưa bao giờ có dịp vác xe đạp chen xuống đò ướt đến bẹn, trong tiếng la mắng, nguyền rủa của mấy bà đi chợ lắm lời. Phải chăng vì tôi chưa bao giờ phải đứng ở bến sông trong đêm khuya, giữa mưa gió tầm tã rét mướt gân cổ lên mà gào một cách tuyệt vọng: Ơ đò… rồi lại lầm rầm khấn mụ Trẹo cho đò quá giang để mau về nhà, thay quần áo ướt sũng, hơ đôi tay cóng lên bếp lửa ấm. Cạnh hai chiếc cầu ở thành phố tôi tuyệt nhiên không có dấu vết gì của bến đò xưa, và tôi cũng vô tình không bao giờ tự hỏi: Một trăm năm trước, ai đã chèo đò ngang qua sông Hương? Bỗng, từ bờ sông vẳng đến chỗ tôi ngồi cái âm thanh gì giống như tiếng khóc, tiếng nức nở. Tôi lắng tai nghe. Đúng là có ai đang khóc trong đám cây dừa lúc này đã tối đen như mực. Tiếng nức nở cố nén lại nên bật ra những tiếng rất đanh. Tôi rùng mình suýt bỏ chạy. Mụ Trẹo, mụ tổ của nghề chèo đò ngang ở ngã ba sông này từ trong câu chuyện cổ tích buồn thảm kia phút chốc hiện lên trước mặt tôi, với làn da nhăn nheo, tóc xõa đỏ quạch như rễ cừa, cầm cái bơi chèo nhìn tôi đăm đăm. Tôi bước hai bước về phía có ánh sáng điện nhưng rồi lại rón rén vòng ra sau khóm cừa quan sát. Không phải nhìn lâu, trước mắt tôi, một con thuyền neo dưới bóng cừa loang lổ ánh điện, chòng chành nhè nhẹ. Đúng là con thuyền lúc chiều. Tôi kinh hoàng nhận ra người phụ nữ lái đò. Chị đứng đó, cô đơn, tối tăm, tóc xõa rối bù, mắt ngước lên phía cầu, nhòa lệ. Trên cầu dòng người vẫn hối hả kéo qua. Không một ai ngờ rằng có người lái đò nhìn cầu, nhớ thuyền đứng khóc, phải! Giờ này, buổi xi-nê này, lẽ ra cả dòng người kia phải bước xuống đò của chị la hét - đùa - giỡn - chen chúc huyên náo. Không dừng được, tôi đi tìm Dũng và kể cho cậu ta nghe chuyện vừa xảy ra. *** Đêm đã khuya. Trong phòng khách ủy ban huyện, hai chúng tôi không ngủ. Dũng vừa trăn trở vừa kể cho tôi nghe câu chuyện về cuộc đời người lái đò ngang: - Ông nội tớ kể rằng: Cách đây khoảng nửa thế kỷ. Cách đây nghĩa là cách cái thời thơ ấu thò lò mũi xanh của tớ ấy - Dũng giải thích - Có một ông quan nhỏ trong triều đình Huế theo Văn Thân đánh Pháp, không thành, dạt về vùng này mở lớp dạy học. Sau rồi cũng bị Pháp cấm vì tuyên truyền chánh trị gì đó. Nản quá, ông ta mua một con thuyền, tới ngã ba sông này làm nghề chèo đò ngang. Ngày ngày ông chèo đò - vắng khách thì lên cái lều ven sông ngâm vịnh. Sau, ông lấy một cô gái mồ côi làm vợ, đẻ được đứa con trai. Một đêm vợ ông chèo đò ngã xuống sông chết. Về sau ông buồn mà chết theo. Người con trai lớn lên tiếp tục cầm chèo. Lại một thời gian sau nữa, anh lấy vợ đẻ được đứa con gái. Khi tớ lớn lên thì đã thấy hai cha con chèo đò ngang rồi. Suốt ngày hai cha con cứ lui cui với con đò. Chị ta phải kê một viên gạch to mới với tới cái chèo đằng mũi. Động tác chèo thuyền vùng sông nước này đã cho chị được cái vóc người lý tưởng vậy đó. Khỏe mạnh mà duyên dáng lạ lùng. Lên cấp hai tớ đi học sơ tán mất hai năm, quay về thì trên chiếc đò ngang chỉ còn mình chị. Ông bố bị máy bay Mỹ bắn chết. Từ đó chị làm cái mui che, ở luôn dưới thuyền. Nhiều đêm đông rét mướt, nằm trong chăn ấm, nghe tiếng gió rít qua khe cửa, tớ hay tự hỏi: Không biết chị ấy xoay xở trên thuyền ra sao! - Tội quá, sao chị ta vẫn chịu đựng được nhỉ? - Ấy có lúc còn tội hơn ấy chứ. Cái hồi làm xong cầu Xuân Phong bắc qua vùng tả, chị ấy buồn lắm. Vì đò chỉ còn hai bến. Chị khóc mấy hôm rồi đưa đò chuyển cả cái am nhỏ xuống cái bến lúc chiều tụi mình đi ấy. Tôi nằm nghiêng nhìn sang giường Dũng, thấy ánh mắt anh chàng long lanh. Đêm đã khuya lắm. Thị trấn ngủ yên trong cảnh thanh bình. Trăng hạ tuần cô đơn gác trên ngọn tre, tâm trí tôi vẫn băn khoăn nghĩ về chị lái đò đã chở chúng tôi qua sông chuyến chiều nay. Tôi hỏi Dũng: - Không còn khách đi đò nữa chị ta làm sao mà sống được nhỉ? Đến lượt Dũng nghiêng sang phía tôi nheo nheo mắt. - Chị ấy chưa biết nhưng mình đã nghe nói xã đã xếp việc cho chị ấy làm trong hợp tác xã chiếu cói xuất khẩu rồi. Còn con đò, xã định đổi cho chị ấy một căn nhà, mai tớ sẽ chỉ cho cậu thấy, khang trang lắm. - Vậy mà hồi tối chị ta xõa tóc ôm chèo đứng khóc ở bến sông. Thật tội. Dũng bật cười thành tiếng: - Đời thế đấy cậu ạ! Cứ để cho chị ấy nhớ thương một thời sông nước đã thấm sâu vào từng thớ thịt. Dứt bỏ đi cái cũ thật chẳng dễ dàng gì đâu. Cậu đã nghe chuyện những cô gái ở vạn đò Gia Hội chưa? Đi lấy chồng đã năm sáu mặt con rồi mà thỉnh thoảng vẫn về lại đò của mẹ để ngủ một đêm trên sóng nước chòng chành cho đỡ nhớ! Nói đến đây anh im hẳn. Tôi tưởng anh đã ngủ. Bỗng anh lại cất tiếng như vẫn biết tôi chờ đợi: - Cái cầu đem lại niềm vui cho tất cả mọi người. Nhưng nếu một người còn chưa vui thì điều ấy có đáng quan tâm không? Tôi không trả lời và anh cũng không giải đáp. Gà đã gáy sang canh. Tôi cố gắng ngủ. Vậy mà sao giấc ngủ cứ chập chờn, không sâu. Huế tháng 7 năm 1985 N.T.T. (15/10-85) |
Mùa xuân về trên vùng rẻo cao, trong hơi gió nồng nàn mùi hoa dại, mùi bột nếp, cả mùi nhựa cây chảy đầy trong thân thảo. Khắp thung lũng rộng, cây cối đâm lên tầng tầng lớp lớp những mầm lá tươi non. Con suối róc rách trườn qua tảng đá xám mượt rêu tung bọt trắng xóa. Trận mưa đêm qua khiến mực nước dâng cao, vỗ lên bờ cỏ những đợt sóng nhỏ trong suốt lạnh lẽo như băng mịn.
Cô bắt đầu gõ, những dòng chữ đầu tiên hiện lên trên màn hình trắng trước mặt, những con chữ màu đen, nhảy múa và chẳng có ý nghĩa gì, chúng rời rạc, đua chen nhau như một mắt xích dài.
1. Tôi được nàng chọn và đưa về. Đó là một sự may mắn mà may mắn không thì chưa biết nhưng ít nhất cũng rời được tay một bà già. Với chừng đó thôi, lòng cũng đủ sướng rơn.
1. Căn biệt thự hoa vàng 3 tầng duy nhất ở chấn ba sầm uất này luôn khiến người khác phải ngoái nhìn bởi độ kỳ bí và nét trang đài hiếm có.
Khi tôi vẫy tay, 362 cũng vẫy tay. Anh ta hoặc cô ta đang muốn chào tôi? Chắc vậy. Tôi không biết người sống trong căn hộ đối diện ở tòa nhà bên kia là ai. Thậm chí, tôi chỉ mới quan tâm đến sự tồn tại của anh ta hay cô ta vào sáng ngày hôm nay, khi đứng tựa người vào bếp, chờ ấm đun nước réo lên.
Hùng hoàn tất kỹ thuật xoa bóp chân tay buổi sáng trong ngày cho người vợ bị bán thân bất toại đã gần bốn năm, theo hướng dẫn của các bác sĩ và kỹ thuật viên khoa Vật lý trị liệu - Phục hồi chức năng của bệnh viện hướng dẫn.
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân... (Ca dao)
Ở đời, khi bình lặng, mấy ai để ý đến anh. Muốn nổi tiếng, có khi phải trả giá.
HOÀNG LONG
Tôi đã lả đi rồi, sốt ruột từ đêm qua, và ở trạng thái mất nước bắt đầu từ sáng nay.
Kiến trúc sư Đan Thanh đến thành phố N. vào cuối thu. Một mình dạo bờ biển. Sóng và mây cuối chân trời mù mịt màu khói hương. Mấy năm nay, anh hay nhìn thấy màu sương khói ấy của ký ức.
Năm Đại Lịch thứ hai nhà Đường (767), hai cha con An Nam Đô hộ sứ Trương Thuận, Trương Bá Nghi vâng mệnh đắp La Thành.
Vào những năm cuối đời, vua Gia Long chỉ dụ Bộ Hộ điều tra tài nguyên thảo mộc của nước nhà. Song phải đến những năm đầu triều Minh Mệnh việc lớn này mới tạm xong phần kiểm đếm.
NGUYỄN THỊ THÁI
Bà Bên xuất viện. Già làng rất vui, mặt mày phơi phới nói cười vui vẻ, phân công ai làm việc gì cũng kết thúc bằng câu: - Bà Bên về rồi! Vì già đã đăng ký bà Bên. Ngày giờ cận kề tới nơi rồi.
TÔ VĨNH HÀ
Truyện ngắn dự thi 1993
Khải ôm cái túi vải trên tay, bước ra khỏi cổng trại giam. Khải ngước mặt nhìn lên trời, khoảng trời bao la, trong xanh với những tia nắng đầu ngày tỏa dịu ấm áp.
KHUÊ VIỆT TRƯỜNG
Truyện ngắn dự thi 1993
NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾN
Truyện ngắn dự thi 1993
HOÀNG THÁI SƠN
Truyện ngắn dự thi 1993
LÊ NGUYÊN NGỮ
Truyện ngắn dự thi 1993
Jack quỳ xuống trước mặt tôi và thằng con, chảy nước mắt. Mái tóc nâu xỉn tuổi tác của anh ta nhàu rối vào ngực áo thằng Chiến, con tôi.