Chùa Tiên

15:45 24/11/2023

VÕ XUÂN TRANG

ai nên nỗi sầu nầy
Chùa Tiên vắng vẻ, tớ thầy xa nhau?

Ảnh: internet

Câu ca dao này hiện có các dị bản sau đây:

1. Vì ai nên nỗi sầu nầy,
Chùa Tiên vắng v, t thầy xa nhau?
          (Việt Nam phong sử - Nguyễn Văn Mại)

2. đâu nên nỗi nước này,
Chùa Tiên vắng v, tớ thầy xa nhau?
          (Cố đô Huế - Thái Văn Kiểm)

3. Vì ai nên nỗi sầu ny
Chùa Tiên vắng khách, tớ thầy xa nhau?
          (Ca dao đời Tây Sơn)

Do có những dị bản như vậy nên từ trước đến nay đã có nhiều cách hiểu khác nhau về nội dung câu ca dao nói trên.

Để hiểu một cách đầy đủ nội dung của câu ca dao, chúng tôi thấy cần phải làm sáng tỏ các vấn đề sau: Chùa Tiên ở đâu? Tại sao Chùa Tiên lại vắng vẻ (hay vắng khách)? Tớ và thầy mà câu ca dao nhắc đến ám chỉ những ai? Và ai đã gây nên cảnh tớ thầy xa nhau đó?

Trước hết hãy tìm hiểu về Chùa Tiên. Chùa Tiên là tên gọi dân gian ở Huế để chỉ một cái chùa có tên chữ là Chùa Kim Tiên. Chùa Kim Tiên hiện thuộc ấp Bình An, phường Trường An, thành phố Huế. Chùa tọa lạc trên một quả đồi cách chùa Từ Đàm khoảng 400 mét về phía Nam và sát chùa Từ Quang. Tên Chùa Tiên hiện nay nhân dân ở đây vẫn còn dùng để chỉ tên một cái khe chảy qua trước mặt chùa Kim Tiên, đó là khe Chùa Tiên. Với tên gọi dân gian này thì mối liên hệ giữa Chùa Kim TiênChùa Tiên không còn nghi ngờ gì nữa. Chùa Kim Tiên được Quốc Sử quán triều Nguyễn miêu tả như sau: Chùa Kim Tiên ở ấp Bình An, tương truyền chùa này do Hòa thượng Bích Phong làm ra, đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát được trùng tu, sơn thiếp xanh vàng rực rỡ, trước dựng lầu Vọng tiên, quy chế tráng lệ. Sau gặp binh hỏa bỏ hoang phế, nay người trong ấp nhân theo nền cũ làm lại, trước chùa có giếng xưa, sâu hơn 30 thước, nước rất trong sạch (nay vẫn còn). Trương truyền xưa có tiên nữ ban đêm tắm ở giếng ấy nên cũng có tên là Giếng Tiên.

Theo sự miêu tả của các sử quán nhà Nguyễn thì chùa Kim Tiên dưới thời các chúa Nguyễn là một chùa rất đẹp, được sơn xanh thiếp vàng rất tráng lệ.

Đọc kỹ bài "Ai tư Vãn" của Ngọc Hân chúng tôi thấy bóng dáng chùa Kim Tiên được hiện ra tuy phảng phất nhưng cũng khá rõ nét. Ngoài "Giếng Tiên", "Lầu Vọng Tiên" mà quốc sử quán đã miêu tả, bài Ai tư Vãn còn nhắc đến cầu Tiên.

"Gió hiu ht phòng tiêu lạnh lẽo,
Trước thềm lan hoa héo ron ron
Cầu Tiên khói ta đình non
Xe rng thăm thẳm bóng loan rầu rầu"

Cầu Tiên là một cái cầu bắc qua khe Chùa Tiên, cầu này nay đã mất nhưng vị trí của nó nhiều người còn nhớ.

Ngọc Hân cũng có nhắc tới "lầu Vọng Tiên" và miêu tả cảnh trí của chùa với những phong, hoa, tuyết, nguyệt rất kỳ ảo.

Khi trận gió hoa bay thấp thoáng,
Ngỡ hương trời bng lng còn đâu
Vội vàng sa áo lên chầu
Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện chăng!
Khi bóng trăng lá in lấp lánh
Ng tàn vàng nhớ cnh ngự chơi
Vội vàng dạo bước ti nơi,
Thương ôi vắng v giữa tri tuyết sa!"

Dưới con mắt của Ngọc Hân, chùa Kim Tiên thật sự là một cõi tiên, một cảnh tiên hương

"No trông trời đất bốn phương
Cõi tiên thăm thẳm biết đường nào ra?"
"... Não người thay cnh tiên hương
Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông".

Sự miêu tả của Ngọc Hân về nơi ở của mình có phần trùng hợp và có phần bổ sung đầy đủ thêm cho sự miêu tả của quốc sử quán triều Nguyễn về chùa Kim Tiên (Cầu tiên, cõi tiên, cnh tiên..) Điều lý thú nữa là qua bài Ai tư Vãn, chúng ta thấy hình ảnh Quang Trung hiện lên khá đậm nét. Quang Trung đã đi xe qua cầu Tiên để đến với Ngọc Hân, đã cùng với Ngọc Hân dạo chơi trong vườn chùa, và cùng thường lên lầu vọng tiên để cùng ngắm cảnh và nghe ca hát. Tất cả những kỷ niệm đó đã thuộc về dĩ vãng nhưng luôn luôn hiện ra trước mắt Ngọc Hân làm cho nàng: "Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông".

Tài liệu quốc sử quán triều Nguyễn cho biết: Sau khi chiếm Phú Xuân, quân Tây Sơn đã chiếm phần lớn các chùa ở gò Dương Xuân để sử dụng. Chùa Báo Quốc được dùng làm kho thuốc súng, chùa Thiền Lâm làm dinh thự của Bùi Đắc Tuyên. Một số chùa khác đều làm "nhà trọ kinh đô", và chùa Kim Tiên cũng được chọn làm nơi ở của Bắc Cung Hoàng hậu Ngọc Hân.

Trong chiến dịch trả thù nhà Tây Sơn, cùng với sự quật phá lăng mộ Quang Trung, một số chùa chiền có liên quan đến Tây Sơn cũng bị triều Nguyễn triệt phá, trong đó có chùa Kim Tiên là một trong những chùa bị phá nặng nhất và chỉ còn lại "nền cũ" mà thôi. Sau cơn "binh hỏa" (tức là sau cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn), nhiều chùa ở gò Dương Xuân bị phá trong chiến dịch trả thù Tây Sơn đã được các bà Hoàng hậu và công chúa nhà Nguyễn vận động quyên góp để tu sửa lại. Riêng Chùa Kim Tiên họ không tu sửa nên cứ bỏ hoang phế mãi. Đó là lý do giải thích tại sao Chùa Kim Tiên trở nên vắng vẻ.

Vấn đề tiếp theo cần tìm hiểu là tớ và thầy trong câu ca dao ám chỉ ai? Và đã gây nên nỗi sầu đó?

Văn học dân gian nói về thời Tây Sơn trên đất Phú Xuân - Huế hiện sưu tầm được ít ỏi. Triều đại Tây Sơn tồn tại ở Phú Xuân quá ngắn ngủi (1786-1801) nên văn học dân gian chưa đủ điều kiện để ăn sâu bén rễ trong nhân dân. Mặt khác, sự trả thù nghiệt ngã của triều Nguyễn suốt trong một thời gian dài đã làm cho những sáng tác dân gian nói về thời Tây Sơn nếu có, cũng dễ dàng bị lãng quên, vì họ sợ liên lụy. Chỉ có những sáng tác nào nói về Tây Sơn nhưng nội dung có vẻ mơ hồ xa xôi bóng gió, có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, dân gian mới dám lưu truyền phổ biến. Câu ca dao mà chúng ta đang tìm hiểu phân tích chính là thuộc dạng này. Để cho câu ca dao được lưu truyền phổ biến rộng rãi, dân gian đã đưa vào câu ca dao một nội dung mơ hồ bóng gió ai hiểu thế nào cũng được. Vì lý do đó nên vấn đề "tớ", "thầy" và đại từ "ai" trong câu ca dao nói trên, đến nay ít ra cũng có bốn cách hiểu khác nhau:

1- Theo Nguyễn Văn Mại thì câu ca dao này liên quan đến Trần Thủ Độ, Lý Huệ Tông và hoàng hậu của Lý Huệ Tông. "Trần Thái Tông được Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi lên làm vua cho Trần Thủ Độ làm Thái sư, phế Lý Huệ Tông cho ở chùa Chân Giáo. Sau đó Trần Thủ Độ sợ lòng người còn nhớ vua cũ mà sinh biến, nên bức Lý Huệ Tông treo cổ chết, và giáng hoàng hậu của Lý Huệ Tông làm Thiên Cực công chúa, rồi thu nạp làm vợ. Tôn Thất nhà Lý do đó mà sầu trước cảnh nhà Trần không có lòng nhân hậu. Theo Nguyễn Văn Mại trong câu ca dao này, "ai" chỉ Trần Thủ Độ, “thầy" chỉ Lý Huệ Tông và “Tớ” chỉ hoàng hậu của Lý Huệ Tông, cách lý giải của Nguyễn Văn Mại hoàn toàn thiếu cơ sở. Một là chùa mà Lý Huệ Tông ở sau khi bị phế là chùa Chân Giáo không hề liên quan gì đến chùa Tiên ở trong câu ca dao; hai là, quan hệ giữa hoàng hậu của Lý Huệ Tông và Lý Huệ Tông không thể là quan hệ tớ - thầy được. '

2- Theo Thái Văn Kiểm thì câu ca dao này liên quan đến chúa Nguyễn, chúa Trịnh và những người ở chùa Kim Tiên. Thái Văn Kiểm cho rằng: "Chùa Kim Tiên do chúa Trịnh Tráng tức Thanh Đô Vương (1623-1657) dựng lên trong thời kỳ chiếm đất Thuận Hóa. Về sau chúa Nguyễn thắng chúa Trịnh, lấy lại được hai tỉnh Thuận Hóa và Quảng Nam. Quân Trịnh phải dồn binh ở Chùa Kim Tiên và kéo quân về Bắc để ngôi chùa quạnh quẽ. Bùi ngùi kẻ ở người đi họ mới thốt ra những lời bi ai thống thiết như vậy". Với cách hiểu của Thái Văn Kiểm thì thầy ở đây là quan quân chúa Trịnh còn tớ là những người ở chùa Kim Tiên,ai chính là chúa Nguyễn. Cách giải thích này cũng thiếu cơ sở thực tế. Quân Trịnh vào Phú Xuân thời gian ngắn, lại phá phách, cướp bóc nhiều, nên không được lòng dân. Vì vậy quan hệ giữa quân Trịnh và những người ở chùa Kim Tiên cũng như nhân dân Phú Xuân không thể là quan hệ tớ - thầy được. Lịch sử còn ghi lại rất rõ, khi quân Tây Sơn chiếm Phú Xuân thì nhân dân đã lùng bắt quân Trịnh còn trốn đem nộp cho Tây Sơn không sót một tên. Ở đây phải chăng Thái Văn Kiểm có sự lầm lẫn giữa quân chúa Nguyễn và quân Tây Sơn?

3- Có người giải thích câu ca dao trên chỉ liên quan đến Tây Sơn và chùa Kim Tiên.

Sau khi chùa Kim Tiên bị Tây Sơn chiếm dụng thì các sư sãi và các đồ đệ ở chùa phải xa nhau mỗi người một ngã. Như vậy, Ai trong câu ca dao là Tây Sơn, Thầy là các sư sãi, còn tớ là những người phục vụ ở chùa. Cách lý giải này cũng hoàn toàn không ổn. Chúng tôi đã tìm hiểu kỹ trong nhà chùa không hề có quan hệ tớ-thầy. Quan hệ tớ-thầy chỉ dùng ở ngoài đời.

4- Vậy Tớ - Thầy mà câu ca dao nhắc đến là những ai?

Như trên chúng tôi đã nói, chùa Kim Tiên đã được Tây Sơn chiếm dụng làm nơi Ngọc Hân ở. Và tại đây Quang Trung khi còn sống cũng thường ngự chơi với Ngọc Hân. Vì vậy, tại chùa Kim Tiên không chỉ có những người phục vụ Ngọc Hân, mà còn có bộ phận phục vụ cả Quang Trung nữa. Bài "Ai tư Vãn" đã nhắc tới cảnh khi vua Quang Trung đang sống:

Xưa sao gang tấc gần chầu
Trước sân phong nguyệt, trên lầu sinh ca.

Mỗi lần Quang Trung đến ngự chơi đều có đàn ca xướng hát. Sau Quang Trung mất, Ngọc Hân phải sống trong cảnh cô đơn: "Gió hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo". Những người phục vụ mẹ con Ngọc Hân cũng hết sức cám cảnh đơn chiếc lẻ loi của Ngọc Hân. Do đó giữa Ngọc Hân và những người phục vụ chắc chắn đã hình thành một quan hệ tình cảm gắn bó: Quan hệ Tớ Thầy thực sự. Sau khi Ngọc Hân mất, những người phục vụ vẫn tiếp tục sống ở chùa Kim Tiên để thờ phụng bà, và quan hệ Tớ Thầy coi như vẫn tồn tại. Chùa Kim Tiên bị phá sạch, lúc đó Tớ và Thầy mới thật sự xa nhau. Như vậy, trong câu ca dao trên Thầy là Ngọc Hân, còn t là những người phục vụ Ngọc Hân và Quang Trung ở chùa Kim Tiên và cũng có thể là cả những người phục vụ triều đình Tây Sơn. Còn "ai" trong câu ca dao là Nguyễn Ánh và triều Nguyễn.

Với cách hiểu đó thì câu ca dao này là một lời oán trách của nhân dân đối với Nguyễn Ánh, và cũng là một sự cảm hoài, thương tiếc của nhân dân Phú Xuân đối với Ngọc Hân và triều đại Tây Sơn.

V.X.T
(TCSH56/07&8-1993)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Tuy chỉ là món ăn dân dã và phổ biến ở Huế, nhưng để chế biến được một tô bánh canh cá tràu ngon đúng vị… món ăn này cũng đòi hỏi người chế biến phải tỉ mẩn và khéo léo. Ở Huế, bánh canh có nhiều cách chế biến khác nhau, như bánh canh nấu tôm, chả cua, bò viên, da heo... Tuy nhiên, đặc sắc và thu hút nhất vẫn là bánh canh cá tràu (người Bắc gọi là cá quả, miền Nam gọi đó là cá lóc).

  • Huế những ngày này mưa dài lê thê. Từ sáng đến tối hầu như mưa không lúc nào ngớt. Đi kèm mưa là cái lạnh rét luồn vào da thịt, làm tím tái những khuôn mặt, bàn tay, đôi chân trần đang tất tả mưu sinh trên đường phố.

  • BẠCH LÊ QUANG

    Nghệ thuật và âm nhạc nói riêng, khi vượt qua lằn ranh của hữu hạn sẽ trở thành những sấm truyền vĩnh hằng, một thứ Kinh mà con người sẽ truyền rao trong cõi nhân sinh đầy biến động.

  • HỒ THỊ HỒNG

    Vua Thiệu Trị từng nói với bề tôi rằng: “Việc dạy học là chính sự trọng đại của triều đình”(1). Nhưng với truyền thống hiếu học của nhân dân ta, từ lâu vấn đề giáo dục đã được xã hội hóa một cách sâu rộng từ trong từng gia đình, dòng họ và toàn xã hội Việt Nam.

  • (SHO). “Đã mê ớt đỏ cay nồng
    Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
    Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành
          Mời nhau buổi sáng chân thành món quê”

  • PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO

    Trong chuyến đi Huế dự lễ kỷ niệm ba mươi năm Tạp Chí Sông Hương vừa rồi, tôi được Tổng Biên Tập Hồ Đăng Thanh Ngọc ghé tai thông báo: “Chị cứ đi chơi Sông Hương và thăm quan quanh cố đô Huế những chỗ chưa biết, nhưng đừng nên khám phá hết để còn có cái thôi thúc mình lần sau vô  Huế mà khám phá tiếp  nữa. Nhưng dù đi đâu các anh chị cũng đừng quên đến thăm Gác Trịnh mới khánh thành nhé, hay lắm đấy, dù bận mấy  cũng nên tranh thủ ghé thăm Gác Trịnh dù là vài phút ”.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    Buổi sáng, tôi ngồi trong Gác Trịnh nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời đang se sắt chuẩn bị mưa, sự se sắt nằng nặng.

  • PHẠM HUY THÔNG

    Đầu năm 1986, nghĩ rằng năm nay là một năm có nhiều sự kiện trọng đại diễn ra trong nước ngoài nước, tôi e rằng kỷ niệm mùa hè 200 năm trước của Phú Xuân và của dân tộc, dù không phải là không có tầm vóc, có thể chỉ được chú ý có mức độ, - nếu có được nhắc đến.

  • LÊ HUY ĐOÀN

    Những cửa thành của Kinh thành Huế ghi dấu những sự kiện từ kinh đô thất thủ ngày (23/5 năm Ất Dậu, 1885) sau cuộc chiến không cân sức giữa phe chủ chiến của triều đình Huế với giặc Pháp rồi đến sự tàn phá của thiên tai qua trận lụt 1953 làm 4 cửa thành đổ sập, rồi lại trải mình qua chiến sự Tết Mậu Thân (1968) với bao nhiêu vết hằn của bom đạn.

  • VÕ NGỌC LAN

    Như một mặc định của thời gian khi Huế là kinh đô của cả nước và nơi đây cũng là kinh đô của những chiếc áo dài. Vì vậy con gái Huế được làm quen với tà áo dài rất sớm. Bởi khi mới sinh ra đã thấy mẹ, thấy bà, thấy những người phụ nữ chung quanh khoác trên mình chiếc áo dài.

  • LÊ PHƯƠNG LIÊN 

    …Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
    Những buổi ngày xưa vọng nói về…

                       (Đất nước - Nguyễn Đình Thi)

  • G.S. TRẦN QUỐC VƯỢNG

    Thế kỷ XVI chứng kiến sự vỡ ra của nền quân chủ quan liêu Nho giáo Việt Nam.

  • THANH TÙNG

    Tháng 10/2012, tại khách sạn Rex - thành phố Hồ Chí Minh, chiếc bánh đậu xanh Phượng hoàng vũ khổng lồ của nghệ nhân ẩm thực Tôn Nữ Thị Hà và ái nữ Phan Tôn Tịnh Hải được vinh danh Kỷ lục châu Á - do Hội Kỷ lục châu Á công nhận.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN

    Ở Huế có nhiều món ngon nổi tiếng như bún bò, cơm hến, dấm nuốt, bánh khoái, bèo, nậm, lọc… điều này đã được nói nhiều. Nhưng còn nhiều chuyện có thể bạn không để ý lắm.

  • NGUYỄN HUY KHUYẾN

    Vườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Khu vườn này đã được đi vào thơ ca của các vua nhà Nguyễn như là một đề tài không thể thiếu.

  • VÕ NGỌC LAN 

    Đã từ lâu danh xưng mai Huế như một mặc định cho loài hoa mai có năm cánh với sắc vàng rực rỡ. Loài hoa mai ấy chỉ sinh trưởng trên đất Cố đô và cũng là đặc sản của vùng sông Hương núi Ngự.

  • LÊ VĂN LÂN

    Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 với việc chiếm giữ Huế 26 ngày đêm đã tạo nên bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sụp đổ chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ - Ngụy, làm lung lay ý chí xâm lược của kẻ thù, buộc địch phải ngồi vào bàn đàm phán Paris.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN

    Câu chuyện này do nhà thơ Bích Hoàng (tức Hoàng Thị Bích Dư - cựu nữ sinh trườngĐồng Khánh - Huế) kể lại cho tôi nghe trực tiếp vào đầu năm 2012 tại nhà riêng của cô ở 170 phố Cầu Giấy, Hà Nội.

  • TRẦN BẠCH ĐẰNG

    Mỗi địa danh của đất nước ta chứa mãnh lực riêng rung động lòng người, từ những khía cạnh rất khác nhau. Có lẽ lịch sử và thiên nhiên vốn ghét bệnh "cào bằng", bệnh "tôn ti đẳng cấp" cho nên lưu dấu vết không theo một công thức nào cả. Quy luật khách quan ấy làm phong phú thêm đời sống nội tâm của dân tộc ta.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    Đề cập đến sự nghiệp cầm bút của Thượng Chi Phạm Quỳnh cần phải có một cái viện nghiên cứu làm việc trong nhiều năm mới hiểu hết được. Do hoàn cảnh lịch sử, tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến mình có thể tìm hiểu một khía cạnh nào đó trong sự nghiệp to lớn của ông.