LÊ NGUYỄN LƯU
Thừa Thiên Huế ngày xưa còn được gọi là Thiền Kinh. Kể từ sau khi Nguyễn Hoàng xây dựng chùa Thiên Mụ (1601) và chùa Sùng Hóa (1602), các nhà tu hành thấy được đấy là nơi thuận lợi cho việc hoằng Pháp, và những thảo am đầu tiên tức chùa tranh, lần lượt mọc lên...
Ảnh: giacngo.vn
Rồi nhiều du tăng khất sĩ từ Trung Quốc đến theo thuyền buồm. Vùng chung quanh Huế, nhất là khu vực “lâm lộc” phía nam sông Hương (An Cựu và Phú Xuân, Dương Xuân) trở thành trung tâm sinh hoạt sôi nổi của Phật giáo giữa thế kỷ XVII về phát triển sâu rộng khắp địa bàn Thuận Hóa trong thế kỷ XVIII.
Hầu hết chùa chiền ở Huế tồn tại đến ngày nay đều đã có mặt từ thuở ấy, trải qua nhiều lần trùng tu hoặc tôn tạo trên cơ sở cũ. Có chùa chỉ liên quan mật thiết đến sự hoằng dương Phật pháp (như Thuyền Tôn), có chùa còn liên quan ít nhiều đến lịch sử dân tộc (như Thiền Lâm), có chùa mang bóng dáng của những con người tên tuổi trong quá khứ. Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu một ngôi chùa vốn ít ai quan tâm tìm hiểu: Chùa Phổ Quang.
Qua khỏi cầu Bến Ngự một đoạn ngắn, rẽ trái, đi dọc đường xe lửa chừng trăm thước, du khách ngẩng nhìn lên bên phải, sẽ thấy một cái cổng tam quan cũ không lớn lắm đứng chơ vơ lưng đồi. Đằng sau cổng ấy là chùa Phổ Quang, nơi cụ Phan Bội Châu từng tạm trú ngót nửa năm. Gốc tích chùa như thế nào?
Về mặt văn bản, hiện còn một tấm bia lớn khắc bài văn do Lâm Mậu (1) viết năm 1930. Tác giả mở đầu rằng: “Phổ Quang tự kiến trúc bất tường hà đại. Thủy tụng cận nhật, Yết Ma hòa thượng thập kệ đẳng liệt Thiền kinh quan sơn tứ thập cảnh chi nhất” (chùa Phổ Quang không rõ xây dựng vào đời nào. Thoạt đầu nghe truyền tụng mười bài kệ của hòa thượng Yết ma khoảng gần đây xếp vào một trong bốn mươi cảnh chùa ở vùng núi công chốn Thiền Kinh). Thế nghĩa là Lâm Mậu vẫn chưa biết gì về nguyên ủy của chùa, do ai lập ra và từ năm nào?
Về mặt truyền thuyết, người ta kể rằng thời chúa Tiên tức Nguyễn Hoàng (1525 - 1613), vào trấn thủ Thuận Hóa năm (1558), một vị tướng đánh trận thua, lui về gò Phú Xuân nghỉ ngơi. Nhân mộng thấy một vị bồ tát khuyên nên lập chùa sẽ tốt, ông bèn dựng thảo am thờ Phật, đọc sách. Sau ông lại ra làm tướng, quả nhiên đánh trận thắng lợi. Câu chuyện khá ngược đời, Phật nào lại phù hộ cho việc đánh giết nhau?! Nhưng một ông tướng như thế thì có thể tìm thấy trong sử, mà không phải ở thời chúa Tiên. Đó là Nguyễn Hữu Hào (1644? - 1713).
Nguyễn Hữu Hào là con của Nguyễn Hữu Dật (1604-1681), anh của Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700), tước Hào Lương hầu, cả ba vị đều lừng danh võ tướng xứ Đàng Trong, riêng Nguyễn Hữu Hào còn giỏi về văn học. Năm 1689, ông làm cai cơ, trấn thủ Cựu Dinh (Quảng Trị), rồi được điều vào Nam làm tham mưu giúp Mai Vạn Long đánh Chân Lạp. Năm 1690, mắc mưu nữ sứ Chân Lạp là Chiêm Rao Luật, hai ông phạm tội "chần chờ làm hỏng việc quân" nên bị cách hết chức tước, đuổi về làm dân thường. Ông dựng nhà gần núi Hòn Mô, chơi cảnh và đọc sách. Năm 1691, Nguyễn Phúc Chu lên ngôi chúa; phục chức cho ông, lại thăng Chưởng cơ. Năm 1694, chúa mời Hòa thượng Thạch Liêm sang Phú Xuân, ở tại chùa Thiền Lâm mở đàn truyền giới. Thạch Liêm thường cùng ông trao đổi thư từ bàn về văn chương. Năm 1704 ông ra trấn thủ Quảng Bình. Nhân việc công thong thả, dinh trấn yên vui, ông viết Song Tinh, truyện nôm đầu tiên trong lịch sử văn học miền Nam. Ông mất tại nhiệm sở năm 1713, tặng Đôn Hậu công thần, Thụy Nhu từ.
Hành trạng này có chỗ khớp với truyền thuyết như về địa điểm gần núi Hòn Mô (tên cũ của núi Ngự Bình), và chi tiết hai lần làm tướng. Việc lập chùa thờ Phật là thói quen của tầng lớp quí tộc và quan lại xứ Đàng Trong. Do đó, việc Nguyễn Hữu Hào dựng thảo am năm 1690 cũng là bình thường. Có lẽ lúc ấy ông thấy đường công danh đã dứt, quyết chí tu hành trốn đời lánh tục, biết đâu còn có dịp trở lại quan trường...
Không rõ sau khi ông ra trấn thủ Quảng Bình, ai thừa kế thảo am, hay bỏ hoang một thời gian. Sau này, những lần trùng tu sùng tạo được Lâm Mậu thuật lại khá rõ:
- Năm 1827, “Hoà thượng Tĩnh Viên mở rộng quy mô chùa, ngọc vàng rạng rỡ, quả là một tòa bồ đề lớn trong cõi núi rừng”, công chúa Nguyễn Ngọc Nguyệt, cung tần Tống Thị Thuận và đề đốc Tôn Thất Đính cùng tiếp tay với các đàn Việt làm thêm...
- Năm 1895, chùa hư hỏng nặng không sửa chữa nổi, tự trưởng Nguyễn Thái Tứ (hiệu Chính Động đại sư) cúng dường cho Hòa thượng Cương Kỷ chùa Từ Hiếu. Phần tiền đường cũ bị giở đưa đi. Sau đó, bà tì kheo họ Hồ, pháp danh Thanh Linh xin bỏ tiền ra trùng tu, “điện Phật cửa không, phòng tăng nhà bếp rạng rỡ đổi mới; tranh tượng đồ thờ trang nghiêm, đầy đủ”. Rồi hòa thượng Tịnh Minh làm tự trưởng mới bắt đầu xây dựng tòa tam quan và đúc quả đại hồng chung còn lại đến ngày nay.
- Năm 1927, Tịnh Minh mất, chùa lại hoang phế. Năm 1930 theo lời thỉnh cầu của con gái bà họ Hồ là Nguyễn Thị Kim Đính, Giáo hội cử Nguyễn Văn Trí (pháp danh Tâm Diên, tự Y Truyền) về làm tự trưởng. Rồi bà Lê Thị Vượng (vợ ông quan năm Pháp) bỏ tiền ra trùng tu. Công việc xong xuôi, sư Giác Tiên chùa trúc Lâm mới nhờ Lâm Mậu làm bài văn khắc vào bia đá để ghi sự tích.
Quy mô hiện nay là do các tự trưởng, trụ trì kế tục sửa sang, tôn tạo, nhưng đất đai thì dần dần thu hẹp, vì nhượng lại cho các tín đồ làm nhà ở. Chùa xây trên đỉnh đồi, quay mặt ra sông Bến Ngự, con đường xe lửa chạy bọc quanh dưới chân đồi. Cảnh trí trông rất khoáng đãng. Các sư tăng đồ đệ ra sức trồng cây cành điểm xuyết thêm vẻ trang nhã thâm u. Từ ngoài vào, không có thành quách, qua cổng tam quan là cái sân rộng rãi bằng phẳng. Tháp mộ đại sư Tịnh Minh nằm ở khu vườn bên trái. Cuối sân, tòa Phật điện nguy nga, do hậu điện ngày xưa được cải tạo lại, cùng với những tăng xá tịnh thất hợp thành chữ "khẩu".
Thực ra, lai lịch chùa Phổ Quang thì cũng đại khái như bao ngôi chùa khác trong vùng, quy mô lại bình thường chẳng có gì đặc biệt. Lâm Mậu viết: “sự thịnh suy của đạo Phật không liên quan gì đến sự hưng phế của một ngôi chùa”. Sở dĩ chúng tôi chú ý đến nó, vì nơi đây ít nhiều cũng từng phảng phất bóng dáng của nhà thơ - võ tướng Nguyễn Hữu Hào và còn là chỗ tạm trú của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.
Theo hồi ký của nhiều người (Đào Duy Anh, Lâm Hồng Phấn, Tôn Quang Phiệt...), thì sau phiên xử ngày 23-11-1925 của Hội đồng đề hình Hà Nội, thực dân Pháp buộc phải ân xá Phan Bội Châu trước áp lực của nhân dân cả nước. Nhưng để ngăn chặn ảnh hưởng của cụ trong đồng bào, chúng đưa cụ về Huế, ép ở tại dinh của Nguyễn Bá Trác, một tên phản bội đang làm thị lang bộ Hình. Nhân dân và trí thức Huế kéo đến chất vấn Trác khiến y hoảng sợ, phải đưa cụ ra ở nhà riêng của Phan Khắc Hòe tại Đập Đá. Nhưng Phan Khắc Hòe cũng đang là công chức của chính phủ Pháp, làm tham tá tòa sứ Thừa Thiên, nên dư luận vẫn xôn xao phản đối. Thực dân đành cho cụ tự do, tất nhiên đặt dưới sự giám sát của bọn mật thám. Nhóm trí thức như Lê Ấm, Trần Đình Nam, Võ Liêm Sơn, Nguyễn Đình Huân... điều đình với Trụ trì chùa Phổ Quang. Đại sư Tịnh Minh cũng có lòng yêu nước, khẳng khái nhận lời. Đại sư, nhân dân gọi là thầy Huân, thu xếp nhường dãy tăng xá bên phải cho cụ Phan cư ngụ và tiếp khách...
"Ông già Bến Ngự" ở đây ngót nửa năm (từ 6-1926 đến 1-1927), nhà chùa trở nên rộn rịp khác thường. Một vị tu theo đạo thanh tĩnh sống bên cạnh một vị tu theo đạo "yêu nước" nhưng không có gì mâu thuẫn. Chính nơi đây, hàu hết các thanh niên nam nữ nhiệt tình lo lắng cho tiền đồ Tổ quốc trên đất thần kinh đều quy tụ xung quanh cụ Phan, nhen nhúm các hoạt động, các phong trào chống thực dân Pháp. Nữ công học hội ra đời ngay từ tháng 6 năm 1926 tại tăng xá, nhằm giáo dục và giúp đỡ phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội, cụ Phan làm cố vấn cho hội, hội trưởng là Tôn Nữ Đồng Canh (con gái thứ hai của Hoằng Hóa quận vương, tức cháu nội của Minh Mạng, tự Quý Nương, hiệu Đạm Phương), tổng thư ký là bà Trần Quang Khải, thư ký là Trần Thị Như Mân... Ít lâu sau, đồng bào trong nước gửi tiền về tặng, cụ mới nhờ người mua đất làm nhà trên dốc và dời lên ở đầu năm 1927.
Cách mấy tháng, đại sư Tịnh Minh chết, không biết cụ có viếng câu đối nào để lưu tình chăng?
L.N.L
(TCSH54/03&4-1993)
----------------------
(1) Lâm Mậu là con của Lâm Sum (ông Sum làm tri huyện ở Duy Xuyên, tham gia phong trào Cần Vương, thất bại, bỏ quan về làm thuốc), đỗ giải nguyên, tốt nghiệp trường Hậu bổ, chỉ xin đi dạy học. Ông làm hiệu trưởng các trường Sơ đẳng ở Cẩm Xuyên, Can Lộc (Hà Tĩnh), rồi Quảng Ninh (Quảng Bình), năm 1926 đổi về Huế dạy môn Quốc văn trường Đồng Khánh (nay Hai Bà Trưng), ông thường đi lại với Phan Bội Châu, giao du với các nhà sư, giúp Đào Duy Anh soạn từ điển Hán Việt. Con gái là Lâm Thị Cẩm, con trai là Lâm Hồng Phấn (1921 - 1982) đều có tham gia hoạt động cách mạng.
CAO CHÍ HẢI
Nghệ thuật sân khấu, âm nhạc vô cùng phong phú và đặc sắc, nhiều lễ hội cổ truyền và thuần phong mỹ tục tiêu biểu của người Việt được lưu truyền đến Nghệ thuật múa của dân tộc Việt xuất hiện cách đây khoảng 4000 năm.
MAI VĂN HOAN
Một số bài viết đề cập đến nơi an táng Đại thi hào Nguyễn Du gần đây chủ yếu dựa vào Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền. Gia phả ghi: “Năm Canh Thìn (1820) Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi.
TRẦN ĐÌNH BA
1. Lược sử, ý nghĩa lệ cày ruộng tịch điền
Trước hết, chúng ta phải khẳng định một sự thật hiển nhiên rằng, Việt Nam là quốc gia nông nghiệp lúa nước, hay nói như lời nhà Nho Phan Kế Bính (1875 - 1921) có đề cập trong Việt Nam phong tục, thì đó là một “Nông quốc”1, quốc gia lấy nông nghiệp làm gốc.
CAO THỊ HOÀNG
1.
Mùi bùn non từ cửa sông theo gió chướng lộng về, tôi ngây ngây mùi nhớ! Cái mùi nhớ đôi lúc bâng khuâng và cũng lắm khi, rịt chặt tâm hồn kẻ hậu sinh với tiền nhân thuở trước. Tôi quay lại Huế.
ĐỖ MINH ĐIỀN
Trong số những đối tượng được thờ cúng và được xem là phúc thần của nhiều làng xã vùng Huế, thì Khai canh, Khai khẩn là một thần hiệu ra đời khá muộn.
VĨNH AN
Sự nhẹ nhàng của tính cách sẽ khiến doanh nghiệp (DN) Huế dễ gần gũi với khách hàng hơn; sự chu đáo trong cuộc sống khiến khách hàng có cảm giác được DN Huế quan tâm hơn; lòng yêu thiên nhiên và nếp sống hòa hợp với thiên nhiên sẽ khiến khách hàng yên tâm về sự phát triển xanh và bền vững hơn của DN Huế… Và đó chính là lợi thế của DN Huế, là đặc tính văn hóa nổi bật của DN Huế.
TRUNG SƠN
I - Lời nhắc nhở của nhà văn Nguyễn Tuân.
Nhà Văn Nguyễn Tuân là người cẩn thận và độc đáo trong việc dùng chữ nghĩa. Vậy nên nhắc đến "cụ", trước hết phải có đôi lời về cái đầu bài.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
Trong quan niệm của người Việt xưa, chó là con vật trung thành và mang lại nhiều may mắn. Tục thờ chó được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Có nơi thờ chó đá trước cổng như một linh vật với ý nghĩa cầu phúc, trừ tà hoặc đặt chó đá trên bệ thờ và coi như một bậc thần linh.
NGUYÊN HƯƠNG
Từ trung tâm thành phố, chạy thêm 25km về hướng Đông Nam sẽ gặp xã Phú Hải (thuộc huyện Phú Vang) gồm 4 ngôi làng tên Cự Lại: Cự Lại Đông, Cự Lại Bắc, Cự Lại Trung và Cự Lại Nam (dân làng thường gọi chung là Cự Lại). Những ngôi làng này nằm kề sát nhau, có chiều dài khoảng 2km, trải dọc ven biển và phá Tam Giang.
TRƯỜNG AN
“Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất trắng trời…”
PHƯỚC VĨNH
Du lịch dịch vụ đang được xác định là mũi tàu xanh của con thuyền rẽ sóng ra biển lớn của Thừa Thiên Huế. Làm sao để mỗi công dân đang sống ở miền sông Hương núi Ngự, ngay từ nhỏ đã được khơi gợi ý thức về việc tạo nên sản phẩm du lịch và triển khai ý tưởng đó, với một ý thức văn hóa Huế đã ăn sâu trong tiềm thức…
VÕ VINH QUANG
Tộc Nguyễn Cửu và những dấu ấn quan trọng trong lịch sử văn hóa xứ Thần Kinh
NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
Sau đêm binh biến Thất thủ Kinh đô, kinh thành Huế ngập chìm trong máu lửa, tiếng khóc than. Những dãy nhà gỗ, mái tranh chạy dọc hai bên đường Đông Ba đến giáp hoàng cung ngập chìm trong biển lửa. Bọn Tây tay súng, lưỡi lê hàng ngang tha hồ tàn sát quân dân ta.
NGUYỄN CAO THÁI
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”
TRIỀU NGUYÊN
1. Đặt vấn đề
Có lẽ không ít lần chúng ta đã nghe nói đến hai dạng thơ Song điệp và Song thanh điệp vận của thể thơ Thất ngôn luật Đường, trên thi đàn Việt. Vậy chúng là những kiểu, dạng thơ như thế nào, và quan hệ giữa chúng ra sao?
HOÀI VŨ
* Vài nét về việc du nhập điện ảnh vào Huế
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) năm 2016 có đăng bài “Vài nét về lịch sử nhiếp ảnh và điện ảnh ở Thừa Thiên Huế” của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa cung cấp nhiều tư liệu rất quý.
THẢO QUỲNH
Quyết Chiến là tờ nhật báo đầu tiên của cách mạng xuất bản ở Huế sau Cách mạng Tháng Tám, là cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân cách mạng, tiếng nói của Đảng bộ Việt Minh Thuận Hóa và của tỉnh Nguyễn Tri Phương (bí danh của tỉnh Thừa Thiên). Mới đây, đọc lại một số báo Quyết Chiến, chúng tôi tìm thấy một số thông tin liên quan đến Ngày Khỏe vì nước đầu tiên của Huế vào giữa năm 1946. Xin trích dẫn lại để bạn đọc tham khảo:
Thời gian qua, tỉnh Thừa Thiên Huế đã đẩy mạnh các chương trình trọng điểm để tạo động lực thúc đẩy phát triển nhanh mọi mặt kinh tế - xã hội. Mỗi chương trình trong chuỗi các chương trình lớn, như là một căn nền tạo lực nâng cho tương lai.
Kỉ niệm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam
THANH BIÊN (*)
NGUYỄN THÀNH
Kỷ niệm 60 năm khoa Ngữ Văn Trường Đại học Khoa học - Đại học Huế (1957 - 2017)