Chủ tịch Hồ Chí Minh với những công việc đã trải qua trong hành trình cứu nước

15:00 04/06/2021

Khảo sát sơ bộ cho thấy trong hành trình cứu nước, Văn Ba - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã trải qua gần 20 công việc, nghề nghiệp khác nhau. Những công việc của nhà nông, công nhân, thợ thuyền, trí thức, thương gia, Bác đều đã từng làm. Trong tất cả những danh hiệu mà Người được vinh danh, Bác chỉ nhận mình là người yêu nước và nhà cách mạng chuyên nghiệp là công việc mà Người theo đuổi suốt cuộc đời.

Tàu Amiral Latouche Tréville, nơi Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước (6/1911). Ảnh tư liệu

Năm 2021, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kỷ niệm 110 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911- 5/6/2021), 80 năm ngày Người trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam (28/1/1941-28/1/2021). Chúng ta cùng tìm hiểu thêm về các công việc, nghề nghiệp Bác đã làm trong hành trình hơn 30 tìm đường cứu nước, bắt đầu từ những ngày Văn Ba “Lênh đênh bốn biển một con tàu / Cuộc đời sóng gió trong than bụi / Tay đốt lò, lau chảo, thái rau.”

Phụ bếp trên tàu Amiral Latouche Tréville

Ngày 3/6/1911, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Văn Ba xin làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche Tréville, một tàu lớn vừa chở hàng vừa chở khách của hãng Năm Sao đang chuẩn bị rời cảng Sài Gòn đi Marseille, Pháp.

Ngày 5/6/1911, tàu Amiral Latouche Tréville rời bến cảng Nhà Rồng, Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), mang theo một người thanh niên Việt Nam đầy lòng yêu nước thương dân, ôm ấp một hoài bão lớn lao: Tìm hiểu nền văn minh của thế giới, ra sức học hỏi để về giúp nước. Một giai đoạn mới, một bước ngoặt mới mở ra trong cuộc đời Nguyễn Tất Thành.

Bến cảng Nhà Rồng đầu thế kỷ XX, nơi Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước


Với chân phụ bếp trên tàu, hằng ngày Văn Ba phải làm việc từ 4h sáng, quét dọn nhà bếp lớn, sau đó đi đốt lò khuân than, xuống hầm lấy rau, thịt cá, nước đá. Trong bếp thì rất nóng, dưới hầm thì rất lạnh. Văn Ba phải vác nặng từ dưới trèo lên những bậc thang khi tàu luôn tròng trành vì sóng biển. Xong việc anh phải dọn dẹp cho chủ bếp người Pháp ăn. Rồi nhặt rau, rửa xoong chảo, đốt lò lại. Nhà bếp nấu ăn cho hàng trăm người nên đồ dùng rất to và nặng. Công việc vất vả bận rộn suốt ngày đến 9h tối mới xong. Mỗi tháng chủ tàu trả cho Văn Ba 45 Franc là hạng tiền công rẻ mạt. Hồi ấy, Bùi Quang Chiêu, kỹ sư canh nông vào làng Tây, đi tầu hạng nhất cùng gia đình. Ông đưa con sang Pháp học. Trông thấy Văn Ba, ông gọi anh lại và thân mật bảo: “Tại sao con lại làm cái nghề khó nhọc này? Bỏ nghề đi. Con nên chọn một nghề khác, danh giá hơn…” Anh Ba lễ phép cảm ơn ông Chiêu, nhưng không nói đồng ý hay không.

Sau này Bác kể lại: “Ngày trước Bác cũng đã làm phụ bếp. Lúc đó Bác là vong quốc nô, làm phụ bếp cho thực dân Pháp. Công việc vất vả từ 5h sáng đến 9-10h tối. Nhưng Bác vẫn học được văn hoá và chính trị. Có quyết tâm thì nhất định học được." Người thanh niên 21 tuổi ấy ra đi với mục đích gì? Để kiếm kế sinh nhai, hay để thoả mãn một ước mơ xa lạ nào đó của tuổi trẻ? Điều đó, hơn mười năm sau chính Người đã trả lời nhà báo, nhà thơ Nga Osiv Mandenstam rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba từ Pháp 'tự do, bình đẳng, bác ái'. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”. Một lần khác, trả lời nhà văn Mỹ Anna Louis Strong, Người nói: “Nhân dân Việt Nam, trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.

Làm vườn ở Saint–Adresse, ngoại ô của Havre (năm 1912)

Tàu Amiral Latouche Tréville lên Havre để sửa chữa. Nhân viên được đưa sang làm việc ở một chiếc tàu khác, trở về Đông Dương. Văn Ba không muốn trở về. Chủ tàu đem anh về nhà giúp ông công việc làm vườn.

Là thủy thủ, bồi trên tàu biển đi vòng quanh châu Phi (năm 1912)

Năm 1912, Văn Ba đang làm vườn cho ông chủ hãng Chargeurs Réunis, thì được ông chủ tàu sau một buổi đi làm về cho biết: “Có một chuyến tàu đi vòng quanh châu Phi. Không có hành khách. Chỉ có hàng hoá. Anh có muốn nhận làm bồi cho các sĩ quan trên tàu ấy không? Họ không đông lắm đâu và đều là những người tốt, anh sẽ thấy anh không đến nỗi vất vả ở trên tàu. Đồng ý chứ?”. Khi đó một người bạn can ngăn nói rằng khí hậu ở châu Phi rất nóng, tàu chở hàng rất tròng trành, dễ say sóng, đi một thân một mình, không có ai bầu bạn rất nguy hiểm, nhưng Văn Ba vẫn quyết định đi với mục đích là đi xem các nước. Làm thuê cho một chiếc tàu của hãng Chargeurs Réunis đi vòng quanh châu Phi, Văn Ba đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Algeria, Tunisia, Congo, Senegal… Đến đâu anh cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị.

Đi ở, làm bồi bàn ở nước Mỹ (từ năm 1912 đến năm 1913)

Văn Ba đến nước Mỹ. Anh vừa đi làm thuê để kiếm sống vừa tìm hiểu đời sống của những người lao động Mỹ. Năm 1966, trong một lần tiếp nhà báo Mỹ David Delingher, Bác Hồ có nói: “Khi trở về Mỹ ông có thể nói rằng tôi đã đi ở cho người ta ở Brooklin với lương tháng 40 USD... Tôi làm việc không đến nỗi vất vả lắm và dùng một số thời gian rảnh để học tập và đi thăm những khu vực trong thành phố”. Người còn nhắc đến chuyện đi xe điện ngầm tới thăm khu Harlem và rất xúc động trước điều kiện sống của người da đen. Có tài liệu viết rằng Nguyễn Tất Thành đã đến Boston, làm thuê ở khách sạn Parker House.

Thợ đốt lò, cào tuyết ở nước Anh (năm 1913)

Khoảng đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu rời Mỹ trở về Havre, sau đó sang Anh. Người con của viên quan lại nhỏ ở Kim Liên, trong chính quốc to lớn đầy sương mù và khói bụi, để sinh sống đã nhận cào tuyết cho một trường học. Công việc quá vất vả mệt nhọc, anh đành phải bỏ việc. Anh tìm được một việc khác là đốt lò. Từ 5h sáng, anh đã phải chui xuống hầm để nhóm lửa, suốt ngày đổ than, thay than trong lò, sống trong cảnh tranh tối tranh sáng, ngột ngạt. Nhưng cũng ngay từ những ngày đầu tiên đến nước Anh, Nguyễn Tất Thành bắt tay vào việc học tiếng Anh. Hằng ngày, sáng sớm và buổi chiều, nghĩa là trước và sau giờ lao động để kiếm tiền sống, anh miệt mài tự học. Hằng tuần, vào ngày nghỉ, anh học tiếng Anh với một giáo sư Italy.

Làm phụ bếp ở khách sạn Drayton Court, Tây London. Thợ làm bánh ở khách sạn Carlton, London (cuối  năm 1913)

Sau hai tuần nghỉ việc đốt lò vì bị cảm, Nguyễn Tất Thành đến làm thuê ở khách sạn khách sạn Drayton Court, đại lộ Drayton, khu West Ealing, Tây London.

Một thời gian sau, Nguyễn Tất Thành lại chuyển sang làm phụ bếp ở khách sạn Carlton, một khách sạn sang nổi tiếng ở London. Anh làm việc dưới sự điều khiển của ‘vua đầu bếp’ người Pháp Escophier. Công việc của anh là dọn dẹp bát đĩa và đồ đạc. Anh làm rất cẩn thận. Đáng lẽ vứt thức ăn thừa vào một cái thùng thì anh lại để riêng những thức ăn còn sạch sẽ, có lúc là một phần tư con gà hoặc còn nguyên cả miếng bít tết để đưa lại cho nhà bếp. Ông già Escophier chú ý tới việc làm đó và hỏi anh: “Tại sao anh không quẳng thức ăn thừa vào thùng như những người khác?”. Anh trả lời: “Không nên vứt đi. Ông có thể cho người nghèo những thứ ấy”. Escophier thấy mến anh. Ông nói: “Tạm thời anh hãy gác ý nghĩ cách mạng của anh lại một bên và tôi sẽ dạy cho anh cách làm bếp, làm ngon và anh sẽ được nhiều tiền”. Từ đó, Nguyễn Tất Thành được ông “vua bếp” đưa vào chỗ làm bánh với số lương cao hơn và nhất là có nhiều thời gian để học tiếng Anh.

Thợ ảnh, vẽ chao đèn, vẽ đồ cổ mỹ nghệ Trung Hoa, bán rượu rum đồng thời làm báo, là tuyên tuyền viên cách mạng ở Pháp những năm 1917-1923

Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ nước Anh trở lại Pháp. Anh làm nhiều nghề khác nhau để kiếm sống, để tìm hiểu tình hình chính trị, tình hình Việt kiều và bắt đầu thực hiện cuộc vận động, tuyên truyền cách mạng. Mật thám Pháp Désiré chuyên theo dõi hoạt động của Nguyễn Ái Quốc viết trong báo cáo ngày 19/6/1922: “Lâu nay Nguyễn Ái Quốc làm việc ở nhà số 7 ngõ Compoint. Buổi chiều bán rượu rum ở các cửa hàng bán rượu vang, lợi dụng sự tự do này để tuyên truyền cách mạng cho những người người quê ở các nước thuộc địa, chủ yếu  trong những người Đông Dương và Madagascar”.

Trong một báo cáo khác ngày 28/3/1923, Désiré ghi: “Nguyễn Ái Quốc  tiếp tục làm thêm nghề sửa ảnh tại số 7 ngõ Compoint...số giờ làm việc trên không đủ bảo đảm đời sống vật chất, ông Nguyễn Ái Quốc còn vẽ chao đèn, phóng ảnh và rửa ảnh có được do việc ông cho đăng tin quảng cáo trên báo Người cùng khổ và báo Nhân đạo”. Người ta cũng đã đọc được trên báo "Đời sống thợ thuyền" (La Vie Ouvriere) mấy dòng quảng cáo: "Muốn lưu lại một kỷ niệm sinh động về gia đình, xin sửa lại ảnh tại nhà Nguyễn Ái Quốc, hình đẹp, khung đẹp, với giá 45 quan". Tuy nhiên, Người không mấy thành công trong công việc này nên sống rất cơ cực.

Làm phiên dịch, phóng viên, làm báo, bán báo, bán thuốc lá, thày giáo lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu Trung Quốc những năm 1924-1927

Cuối  năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu, Trung Quốc, với danh nghĩa công khai là cán bộ phiên dịch của phái bộ cố vấn Borodin, bên cạnh Chính phủ Tôn Dật Tiên, vừa phụ trách mục tuyên truyền trong tờ báo Canton Gazette - báo bằng chữ Anh của Trung ương Quốc dân đảng. Ngoài công việc cách mạng, Nguyễn Ái Quốc còn đi bán thuốc lá, bán báo để đảm bảo cho sinh hoạt hằng ngày.

Làm vườn, chơm cá, bốc thuốc, đi buôn, đi tu ở Thái Lan những năm 1928-1929

Hoạt động ở Xiêm (năm 1939 đổi tên là Thái Lan), với tên gọi Thầu Chín, Nguyễn Ái Quốc đồng cam cộng khổ cùng kiều bào. Thầu Chín sống như mọi người, cũng đào giếng, vỡ đất làm vườn, gánh gạch, đắp nền xây trường học cho con em kiều bào.   

Một thời gian dài Thầu Chín ở ngay tại hiệu thuốc của Đặng Văn Cáp và đã tranh thủ học nghề thuốc, nắm được những hiểu biết cơ bản về thuốc và chữa bệnh. Có lần đã bốc thuốc cho một cán bộ bị ốm và người này đã khỏi bệnh. Người còn tìm ra cây hy thiêm mọc trong vùng, chữa được chứng bệnh phong thấp.

Sau này, Bác kể về thời gian hoạt động ở Xiêm: Anh em cán bộ người thì làm ruộng, người thì cưa gỗ, cũng có người buôn bán nhỏ để nuôi nhau và hoạt động. Cùng làm lao động với anh em, ban ngày thì Bác làm “suổi” (tiếng Thái Lan nghĩa là làm vườn), ban đêm thì thường đi chơm cá đến khuya mới về. Thỉnh thoảng, Người cùng với một số cán bộ, cũng khăn gói tay đẫy đi buôn để gây quỹ cho tổ chức.

Trần Dân Tiên trong sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” viết: “Ngoài việc cuốc đất, đi buôn, ông Nguyễn còn làm công việc tuyên truyền và tổ chức. “Hội Thân ái Việt Nam” thành lập, một tờ tuần báo Thân ái được xuất bản. Trước kia ở Trung Quốc, ông Nguyễn từ phương Bắc tuyên truyền về nước. Bây giờ ở Xiêm, ông tuyên truyền về nước từ phương Tây”. Những hoạt động của Người, dù đã hết sức cẩn thận vẫn không thể hoàn toàn giữ kín được. Thực dân Pháp sinh nghi, tung mật thám dò tìm. Người bị theo dõi ráo riết. Gặp khi nguy hiểm quá, Người thậm chí đã phải lánh vào chùa, tạm cắt tóc đi tu để tiếp tục hoạt động.

Năm 1938, trong vai thiếu tá Hồ Quang, Bác công tác tại phòng Cứu vong thuộc Văn phòng Bát lộ quân ở Quế Lâm Trung Quốc, phụ trách biên tập tờ Sinh hoạt tiểu báo, tờ báo của nội bộ cơ quan.

Đầu năm 1941 làm thầy giáo ở lớp huấn luyện do Người tổ chức ở làng Nậm Quang, Tĩnh Tây, Quảng Tây, Trung Quốc. Trở về nước, sau Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, tại Pác Bó, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục tổ chức các lớp huấn luyện chính trị - quân sự ngắn hạn cho cán bộ địa phương. Người trực tiếp tham gia giảng bài.

Trong thời gian này, ngoài việc tham gia huấn luyện cán bộ, dịch tài liệu, Nguyễn Ái Quốc tham gia các công việc khác cùng nhân dân và cán bộ, giúp gia đình cơ sở; hướng dẫn các bài thuốc giúp dân chữa bệnh.

Để giữ bí mật, lúc đi công tác Nguyễn Ái Quốc còn cải trang thành thày lang, kiêm thày cúng qua các trạm gác của địch.

Nhà cách mạng chuyên nghiệp

Khảo sát sơ bộ cho thấy trong hành trình cứu nước, Văn Ba - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã trải qua gần 20 công việc, nghề nghiệp khác nhau. Những công việc của nhà nông, công nhân, thợ thuyền, trí thức, thương gia, Bác đều đã từng làm. Trong tất cả những danh hiệu mà Người được vinh danh, Bác chỉ nhận mình là người yêu nước và nhà cách mạng chuyên nghiệp là công việc mà Người theo đuổi suốt cuộc đời. Nhưng để làm một nhà cách mạng chuyên nghiệp thành công, Bác đã không nề hà bất cứ việc gì, làm bất cứ công việc gì để kiếm sống, để có điều kiện gần gũi tìm hiều đời sống thợ thuyền, để làm tốt công tác dân vận, tuyên truyền, tổ chức, hướng hướng họ vào cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập. Cũng từ thực tế lao động, học tập, thâm nhập đời sống những người lao động, phân tích tình hình chính trị thế giới, tiếp cận với chủ nghĩa Marx-Lenin, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn, đó là con đường cách mạng vô sản mà sau này Người đã đúc kết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

Đất nước ta ngày càng phát triển, cuộc sống của nhân dân ta ngày càng ấm no, vui tươi, hạnh phúc, chúng ta càng khắc sâu trong tim lòng biết ơn vô hạn đối với những hy sinh gian khổ mà Bác đã trải qua trong hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước.

 

 

 

Theo Phạm Thị Lai (baochinhphu.vn)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong nghề đúc đồng, việc tạo mẫu có tính quyết định về nghệ thuật trong một tác phẩm. Là thế hệ thứ mười trong một gia đình có truyền thống làm nghề đúc đồng ở làng Dương Xuân xưa, nghệ nhân Nguyễn Văn Viện được tôn vinh là người thợ tài hoa, bởi khó có thể tìm thấy ở làng đúc đồng Huế người thứ hai có kĩ thuật điêu luyện và sức sáng tạo không ngừng như ông… 

  • Ngày 8-1, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên - Huế tổ chức buổi tọa đàm kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, nguyên Bí thư Ðảng đoàn, Tổng Thư ký Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, Ủy viên Ban Thư ký Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam, nhà trí thức yêu nước, người cộng sản kiên trung, người con ưu tú của quê hương Thừa Thiên - Huế. 

  • Ngựa là con vật được sử dụng nhiều trong các cuộc chiến tranh thời cổ. Hình ảnh ngựa gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của nhiều dân tộc, gắn liền với các võ tướng trên nhiều trận chiến. 

  • Mỗi lần đi ngang cầu Ca Cút đều có cái cảm giác “trời đất bao la, chìm đắm trong ta” cho dù buổi sáng, buổi chiều hay có khi về đêm. Cuối năm, khi ngọn giáo đông bắc còn căm căm, cảm giác đó chừng se sắt hơn...

  • Món xôi ống tưởng chừng như đơn giản này lại chứa đựng trong nó tất cả tinh hoa miền núi. 

  • Được Bộ VH-TT (nay là Bộ VH,TT&DL) công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia từ năm 1991, nhưng suốt nhiều năm qua, di tích Tuy Lý Vương nằm ở phường Đúc, TP Huế, bị nhiều hộ dân xâm hại một cách nghiêm trọng. Mặc dù các cơ quan chức năng tỉnh Thừa Thiên - Huế đã vào cuộc, tuy nhiên, do cách xử lý “nửa vời”, thiếu cương quyết nên đến nay, khu di tích này vẫn ở trong tình trạng “kêu cứu” từng ngày...

  • Ngược lên thượng nguồn sông Hương vào một ngày đầu năm 2014, chúng tôi đến thăm cụ ông Nguyễn Lô (82 tuổi), ở thôn Kim Ngọc, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, Thừa Thiên - Huế, trong một căn chòi tạm bên cạnh lăng chúa Nguyễn Phúc Thái (Vị chúa thứ 5 của triều Nguyễn). Gần 40 năm qua, ông lão đã một thân một mình chống lại những kẻ đào trộm mộ để bảo vệ lăng chúa Nguyễn được vẹn toàn; đồng thời cũng khai hoang đất đồi phát triển kinh tế gia đình…

  • Kế Môn (Điền Môn, Phong Điền, TT- Huế) là quê hương của hàng ngàn người giàu có trên cả nước và thế giới. Bởi là quê quán của nhiều người giàu nên Kế Môn sở hữu lắm chuyện đặc biệt.

  • Năm 2010, tôi được về dự đêm thơ Quê Mẹ của nhà thơ Tố Hữu tổ chức tại TP Huế - quê mẹ của ông và có dịp được về thăm quê ông, một làng nhỏ bên dòng sông Bồ trong xanh. Thật thú vị vì đây cũng chính là quê hương của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Nguyên ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Chính ủy Quân giải phóng miền Nam. 

  • Những ngôi nhà vườn, nhà rường cổ ở Huế không chỉ có giá trị về mặt di sản kiến trúc mà còn thể hiện một cách sống động và chân thực nhất về đời sống của người Huế xưa. Nhưng vì nhiều lý do: tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, người dân thiếu tiền trong việc trùng tu bảo tồn …mà giờ đây, những ngôi nhà cổ nguyên bản đặc trưng xứ Huế đang mai một dần.

  • Ðồng chí Nguyễn Chí Thanh sinh ngày 1-1-1914, tên thật là Nguyễn Vịnh, là một nhà lãnh đạo Ðảng, Nhà nước, Quân đội kiệt xuất; nhà chính trị, quân sự mưu lược, tài trí, dũng cảm, kiên quyết; một người con ưu tú của quê hương Thừa Thiên - Huế. Ðồng chí đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Ðảng, của dân tộc. 

  • Từ một địa phương không có bệnh viện tuyến tỉnh, mọi hoạt động trong lĩnh vực y tế chuyên sâu chủ yếu dựa vào Bệnh viện Trung ương Huế là chính nên thường xuyên gây ra vấn đề quá tải. Để khắc phục tình trạng trên, thời gian qua, tỉnh Thừa Thiên Huế đã tập trung nhiều nguồn lực để xây mới 03 bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh. Đến nay, sau thời gian ngắn đi vào hoạt động, các bệnh viện này đã làm rất tốt công tác khám chữa bệnh, thu hút ngày càng nhiều bệnh nhân đến khám và điều trị.

  • Múa bao giờ cũng gắn kết với âm nhạc (nhạc đàn và nhạc hát), vì thế, người ta thường gọi tên là “Múa hát cung đình”. Múa hát cung đình của vua chúa Việt Nam không giống như hình thức vũ hội phương Tây. Nó chủ yếu phục vụ cho vua chúa, lễ lạc trong triều đình, mang hình thức lễ nghi phong kiến vương triều. 

  • Hội đồng chung khảo Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô lần thứ V đã lựa chọn được 40 tác phẩm, công trình (trong tổng số 45 tác phẩm, công trình do Hội đồng sơ khảo giới thiệu vào xét vòng chung khảo) đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh trao giải thưởng A, B, C. 

  • Bác sĩ Trương Thìn  sinh năm 1940 tại Thừa Thiên Huế . Từ năm 1961 ông là  sinh viên Trường đại học Y khoa Sài Gòn .Ông  học giỏi, nhiệt tình tham gia phong trào học  sinh, sinh viên yêu nước, là trưởng đoàn văn nghệ sinh viên học sinh Sài Gòn trong  phong trào đấu tranh “Hát cho dân tôi nghe” những năm trước giải phóng.

  • Với người Tà Ôi ở miền rẻo cao A Lưới (tỉnh Thừa Thiên - Huế), từ xa xưa, những chuỗi mã não là biểu tượng của quyền lực, sự giàu có, sang trọng và có địa vị trong cộng đồng.

  • Chứa đựng trong mình cả một giai đoạn lịch sử thông qua các di tích, nét trầm mặc cổ kính, điệu hát cung đình Huế âm trầm cùng với sông Hương, núi Ngự… Huế vẫn sừng sững nghiêng mình tồn tại với thời gian qua sự thăng trầm của lịch sử, với thời gian và sự chống trọ trong chiến tranh.

  • Thời thượng, đâu cũng piano, ghi ta thì có một người vẫn ngày đêm lưu giữ và phục chế hàng ngàn cây đàn cổ quý báu của tổ tiên để lại.

  • Khi chọn Huế làm đất đóng đô, các vua chúa nhà Nguyễn đã quên mất một yếu tố quan trọng và cơ bản của phong thủy. 

  • Tác phẩm “văn sử bất phân” Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 - 18 (Nguyễn Nghị dịch, NXB Trẻ tái bản lần thứ nhất, quý 3/2013) của Li Tana, đã được trao giải Sách hay 2013..