ANNIE FINCH
Chúng tôi khát khao cái đẹp thi ca, và chúng tôi không e dè né tránh những nguồn mạch nuôi dưỡng chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng với chủ nghĩa Toàn thể hình thức (omniformalism), cho một thi pháp phong phú và mở rộng, giải phóng khỏi những doanh trại của những cuộc chiến thi ca đã chết rấp.
Nhà thơ Annie Finch - Ảnh: internet
Sau đây là những mong muốn của chúng tôi:
1. Tính vật thể (Physicality)
Chúng tôi mê điên những bài thơ dồn tuôn máu, chuyển động vào ba chiều kích bằng những thiết yếu nội tại của hình thức chúng, vốn biết những dạng thức và tiết điệu dai dẳng mà thế giới bảo lưu.
2. Tính thẩm thấu (Permeability)
Chúng tôi đói ham thứ thi ca chuyển động tự do giữa các trường phái, những văn hóa, những truyền thống, và những kỉ nguyên của thi pháp và được nuôi dưỡng bằng những ảnh hưởng tranh chấp.
3. Cấu trúc (Structure)
Chúng tôi thèm thuồng những bài thơ phản ánh hoặc khúc xạ những dạng thức trong tay nghề của chúng, chúng xây dựng những hình dạng riêng hoặc lạ lẫm hoặc dễ dãi, chúng thách thức và thăm dò dạng thức không thân quen và đồng thời cũng tán thưởng và bảo trì cái thân quen.
4. Thân thuộc (Kinship)
Chúng tôi muốn những bài thơ vươn ra ngoài cũng như rướn vào trong. Chúng tôi ham thứ thi ca đánh dấu và lưu dấu trên những sự kiện thời vụ của con người. Chúng tôi mong muốn những bài thơ chuyên chở và kết nối với dục vọng.
5. Tính liên tục (Continuity)
Bất đồng không phải là hạ sát, và những chọn lựa khác nhau có thể mang nghĩa bất đồng. Chúng tôi đề kháng khuôn mẫu mang tính phức cảm Oedipius của truyền thống và đói ham thứ thi pháp bền vững, cũng như khám phá.
6. Huyền nhiệm (Nystery)
Chúng tôi hân hoan là những tuyên ngôn sẽ chẳng bao giờ chứa giữ thi ca. Chúng tôi có một mong muốn cuồng dại đối với thi ca gìn giữ một điều gì mà chúng tôi không thể hiểu nổi.
Tại buổi kết thúc dự án trong tám năm đồng biên tập cuốn: Tán dương hình thức: Những nhà thơ đương đại ăn mừng sự đa dạng của nghệ thuật (An Exaltation of Forms: Contemporary Poets Celebrate the Diversity of Their Art) - Ấn quán Đại học Michigan, 2002, Katherine Varnes và tôi vẫn còn bất mãn do một số của cùng những tình huống đã khởi đầu dẫn tới cuốn sách ấy: những cuộc chiến giành đất giữa các nhà thơ, sự phân cách của những chiến lược về hình thức và những tương quan khuôn sáo giữa những thủ thuật hình thức của bài thơ và những cam kết chính trị và triết học của nó. Gặp nhau để ăn mừng việc xuất bản tuyển tập trên, chúng tôi hai đứa nguệch ngoạc bản sơ thảo của tuyên ngôn này trên một tờ giấy ăn trong một quán lau ở tiểu bang New Orleans, Hoa Kỳ.
THÂN THỂ CỦA THƠ (THE BODY OF POETRY)
(Luận văn về phụ nữ, hình thức, và tự thân thi ca)
Kể từ chủ nghĩa Lãng mạn, vận động thống ngự của thơ đã bao gồm một sự thúc đẩy liên tục để vượt thoát khỏi sự giới hạn thể hình minh định của nghệ thuật, từ sự tháo gỡ của Wordsworth về ngôn từ ‘thi ca’ để ưa chuộng một ngôn ngữ của ‘một người nói với các người’ qua sự vượt thoát khỏi vận luật trong cuộc cách mạng của thể thơ tự do (free-verse revolution) và của dòng trong thể thơ phóng chiếu (projective verse) [tức là vắt dòng - enjambment]. Những ai chạm gần đáy nhất của tiến trình này đã là hiển nhiên trong sự vượt thoát khỏi tiếng nói trong thi pháp cắt dán (collage poetics) và khỏi cú pháp trong thi pháp phần mảnh hoặc dán cách (fractal or disjunctive poetics), nó hiện gồm không gian riêng của nó để vượt thoát thêm nữa: những phá vỡ được lặp lại ngay bên trong bình diện của ngôn ngữ.
Trong suốt cũng hai thế kỉ đó thơ trữ tình (lyric poetry), giống như những nghệ thuật khác, phải tới phần nào làm tròn vai trò của tông giáo trong đời sống tâm linh của nhiều nhà nhân văn thế tục có học. Khi tự thân cá thể hóa đã ngày càng mang lấy sự tạo nghĩa gần như tông giáo qua những vận động của chủ nghĩa Lãng mạn và chủ nghĩa Hiện đại (hãy so sánh thi ca cổ đại hoặc thậm chí trung cổ tự lấy tâm điểm trong quy ước xã hội và những ám thị/ điển cố - allu- sions - hơn là viễn kiến cá thể hóa của tự thân), những nền tảng cấu trúc của thi ca đã được tái tổ chức để phản ánh một sự nhấn mạnh mới về sự trải nghiệm của linh hồn cá nhân, và trên một mĩ học của vượt thoát như là đối lập với sự nội tại. Vậy nên, trớ trêu thay, thi ca trữ tình tự thân đã mang lấy những đặc trưng tâm linh và siêu hình chủ chốt của truyền thống tông giáo thống ngự. Những sự tự đảm đương không được nói ra này đã đến thống trị cả thi pháp đương đại chủ lưu và ‘tiền - vệ’, một tình huống với những hàm nghĩa không chỉ cho nội dung của thi ca có định hướng tâm linh, mà còn cả cho thi pháp trên một bình diện sâu hơn cả bình diện về nội dung tông giáo.
Trong thi ca kể việc thể tự do đương đại (contemporary free - verse anecdotal poetry), cái kiểu thức mà Ron Silliman, nói gót Edgar Allan Poe, đã gọi là “trường phái thanh tịnh” (the school of quietude), sự thành thật bề ngoài của tự thân cá nhân, hoặc linh hồn, trở nên tiêu chuẩn trung tâm của thi ca vượt thoát, một địa điểm của sự vật luyến tâm linh (spiritual fetishization). Mọi nhân tố khác - hình thức, ngữ cách, hình tượng, chủ đề, thanh điệu - đều bị gộp trong sự phục vụ cho hiệu quả này. Mặt khác, trong trường hợp của nhiều thi ca tiền vệ, gồm những nhà thơ tâm linh - thử nghiệm như Fanny Howe và Ann Lauterbach, những hình dạng tự phát của một thi ca ngày càng gián cách được gọi lên như một phương tiện để chiêu cầu cái không thể biểu hiện vượt thoát, một ân sủng thách đố và tràn lướt ngôn ngữ.
Cả hai loại thi ca này chiếm được sự chân chính trong mắt người đọc đến mức độ chúng dường như bỏ lại sau hoặc vượt thoát, ‘bài thơ’ như một nhân tạo, một mảnh gia công của ngôn ngữ với những quy ước của nó về ngữ cách và nhịp điệu và những đặc trưng về cấu trúc có thể nhận ra, tách biệt. Việc tự thân tâm linh này hoặc đối tượng vượt thoát của nó có là trung tâm của một bài thơ đương đại hay không, dù ở trường hợp nào trong cả hai thứ này thì cái thân thể xúc cảm của bài thơ, và cái ngôn ngữ xây dựng nó, đều là bên ngoài chủ điểm, đối với luôn cả những nhà phê bình chủ lưu và tiền vệ. Cho dù được thanh tẩy bằng nhiệt tâm Thanh giáo về bất cứ gì phá rối dòng chảy ngôn ngữ trần tục với hơi hướm của chất ‘thi ca’ về một mặt, hoặc là ‘gẫy vụn’, ‘mảnh mún,’ ‘ngắt ngang’ với sự bạo động không mỏi mệt về mặt khác, thân thể của bài thơ đã đến chỗ bị khinh miệt bởi văn hóa văn học (literary culture).
Trong cái mà tôi đã đến việc định danh là một nền tâm linh hướng về Nữ thần (a Goddess - oriented spirituality) thái độ đối với thân thể thì đối nghịch với cái trong truyền thống Do thái - Kitô chủ lưu. Đất bụi, máu, tính dục, linh hồn, trái đất, cái chết, con vật không được phó cho việc phải vượt thoát; như là những thể hiện của cái thiêng liêng nội tại, bằng sự mở rộng chúng cũng là thiêng liêng. Những truyền thống của Kitô giáo, Phật giáo, và những tông giáo khác có thể bảo chúng ta một cách huyền bí rằng Thượng đế hiện diện trong vạn vật (“Tôi kín nước, tôi chẻ củi; đó là sự cầu nguyện của tôi,” đó là lời của nhà tu trong một trong những truyện ngắn tôi ưa thích nhất thuở đầu đời) nhưng khái niệm về Nữ thần thực sự cấu thành một sự hiện diện vật thể. Không chỉ là Nữ thần của thế giới, thế giới chính là sự hiển thị của bà. Mặc dù nam thần siêu việt và nữ thần nội tại là những mặt bổ túc của cùng một đồng tiền tâm linh con người, những ngân vang của họ khác nhau một cách nền tảng.
Trong thi pháp của nữ thần học (thealogy) đối lập với nam thần học (theology), những kết nối về hình dạng và căn cước bên trong và giữa các bài thơ không phải là những bối rối ngẫu nhiên, mà là những mối thân thuộc then chốt. Một điều là, giàn xương cốt dạng thức tạo ra sự mạch lạc ban cho tự thân cái công năng buông xả một căn cước đơn độc hướng về cái tôi (a single, ego-oriented identity) bên trong cái căn cước lớn hơn của một hình dạng có dạng thức. Vượt thoát không phải là cung cách duy nhất ra khỏi tự thân; còn có vài cung cách để lột da một linh hồn. Và sự kết nối cùng sự khác biệt giữa những hình thức và hình dạng của những bài thơ đa dạng, giống như sự đa dạng của các chủng loại, làm hiển lộ bản tính đa giá trị của cái thiêng liêng. Trong ngữ cảnh này, viết một bài thơ như một bài thơ cá thể được hình thành một cách riêng biệt, chỉ hợp nhất với những bài thơ khác trong tương quan với một sự vô thể trừu tượng đơn độc (a single abstract formlessness), hẳn là hi sinh sự kết thức của tính chuyên biệt và sự đa phức của những cấu trúc có dạng thức và hình thức cho cái lên thành một thứ chủ nghĩa độc thần trong thể thơ tự do (free - verse monotheism).
Trong văn hóa văn học đương đại, một truyền thống mạnh mẽ thi ca hình thức có dạng thức (a powerful patterned formal poetic tradition) vẫn còn được kết hợp mạnh mẽ với cái thế giới văn học bị nam giới thống ngự, tiền nữ quyền (the pre - feminist, male - dominated literary world) của thập niên 1950. Không chỉ là nhiều người theo chủ nghĩa nữ quyền ngần ngại viết những bài thơ hình thức (mặc dù điều này đã bắt đầu thay đổi với sự chuyển thiên niên kỉ); thường khi, những động cơ vặn vẹo hoặc phản động vẫn còn bị gán cho những người làm như vậy. Động cơ của riêng tôi khi viết theo hình thức là một sản phẩm của động cơ sáng tạo. Một hấp lực không thể kháng cự hướng về cái thân quen không thể tránh kéo tôi bằng sự nhất tâm không lời hướng về một cái gì xưa hơn là thi pháp phụ quyền (patriarchal poetics). Đây là điều tôi coi là “Tay Nghề” (the Craft), để dùng một từ ngữ xưa cho một sự hiến mình thể hiện đam mê tới nỗi nó đạt tới tầm vóc của một tông giáo trong sự phục vụ Nữ thần. Khi tôi đặt ra một khổ thơ, hiệp một vần, đặt thông một tiết điệu về câu chữ, tôi cảm thấy về mặt tâm linh được kết nối với những truyền thống vượt thời gian của những tay nghề khắp thế giới như là nghề thêu, nghề dệt, và nghề gốm. Tôi cảm thấy được kết nối không chỉ với những nghệ nhân Tiền - Raphael [nhóm hoạ sĩ nước Anh ở thế kỉ 19 đề xướng việc bắt chước nghệ thuật đơn sơ và chân thành, màu sáng, nét mạnh, chú ý chi tiết của các hoạ sĩ Italia trước thời hoạ sĩ Raphael để chống sự bóng bẩy và sướt mướt của nghệ thuật thời Nữ hoàng Victoria] hoặc những người chép sách thời trung cổ, mà còn với những người đan một tấm thảm Turki hoặc hoa tai Celt, bộc lộ niềm vui trung tâm của việc thờ phụng bằng trổ tay nghề làm một vật thể xứng đáng.
Những thi pháp của tâm linh nội tại quan tâm nhiều hơn tới tính bền vững (vốn bằng bản tính - trong cái nghĩa hữu cơ, nghĩa đen theo nghĩa của từ ngữ này - gợi ra sự kiên trì) hơn là với những khái niệm đương đại về tiến bộ. Như tôi sẽ định nghĩa nó “thi pháp nữ thần” (goddess poetics) cử hành và được tạo bằng cái chơi vui và cái vật thể. Tôi bị đưa dẫn đến lưu luyến trong vần thơ và điệp cách, tới vẻ huy hoàng trong những nghệ pháp gây ngạc nhiên của thân thể thi ca. Những nghệ pháp của hình thức này cung ứng một nguồn mạch cho sức mạnh tâm linh trong và bằng tự thân chúng. Điều lệnh tâm linh của lạc thú tự tại của hình thức, như tôi đã hiểu được nó, từ lâu đã kéo tôi về một thi pháp đối lập tự đặt cơ sở trong những đặc thù nội tại của cấu trúc thi ca: dạng thức, điệp cách, bùa mê, hấp lực, tụng ca:
LỄ TỤNG
Từ nhạc tôi mang
mấy cái vây vàng đá
nhưng chúng chìm đi
qua những chỗ cạn ba hoa.
Từ tự nhiên tôi lượm
chút hi vọng hạt lúa
nhưng nó ven nghỉm đi
trong những chén đá chìm.
Vậy rồi tôi hỏi
xin chén và vây
xin một bàn tay
có thể lay chúng về
thành vây vượt cạn,
lượn, quanh;
tôi đoán một bàn tay,
có thể gom những chén mở ngỏ.
Khi tôi đã xin
người tôi đã đoán,
nàng đã gửi lời xin của tôi đi;
và rồi và nữa
nay nàng gửi nó về.
Rồi và nữa nó đáp lời tôi;
rồi và nữa nó đáp lời, như nàng ban nó,
trong tiếng vây và trong tiếng chén.
Xuất bản gốc nơi tạp chí Văn học Đại học Yale (Yale Lit), số Mùa hè năm 1978.
Nguyễn Tiến Văn dịch
Từ nguồn: http://libgen.info
(SH290/04-13)
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".